Bản án 03/2022/DS-ST ngày 20/01/2022 VỀ về tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm của Tòa án nhân dân huyện Hào Vang, thành phố Đã Nẵng.
Ngày 20 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 59/2021/TLST-DS ngày 13 tháng 5 năm 2021 về việc “Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 116/2021/QĐXX-ST ngày 12 tháng 11 năm 2021, giữa các đương sự:
Mục lục bài viết
Bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm trong vụ án giao thông
1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị A, sinh năm 1991; Địa chỉ: Thôn A1, xã H, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Bích D, sinh năm 1997; địa chỉ: Thôn N, xã T, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam (theo Giấy ủy quyền ngày 18/5/2021). Có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Lê Thanh L, sinh năm 1984; địa chỉ: Tổ A, phường B, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
2. Bị đơn: Ông Lê Ngọc P, sinh năm 1983; địa chỉ: Thôn V, xã H1, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Công ty TNHH L; trụ sở: Đường A13 Khu đô thị G, phường H2, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Lê Thị Y – Chức vụ: Giám đốc công ty.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Văn T, sinh năm 1984; địa chỉ: Tổ 01, thôn T, xã H3, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng (Giấy ủy quyền ngày 20/01/2022). Có mặt.
3.2. Bà Trần Thị Nh, sinh năm 1958; địa chỉ: Thôn 05 X, xã Q, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.
3.3. Cháu Nguyễn Hoàng Đ, sinh ngày 22/3/2020; địa chỉ: Thôn A1, xã H, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện hợp pháp của cháu Nguyễn Hoàng Đ: Bà Trần Thị A, sinh năm 1991; địa chỉ: Thôn A1, xã H, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
Nội dung vụ án
Theo đơn khởi kiện đề ngày 12/5/2021, đơn đề nghị bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày 09/6/2021, quá trình tố tụng và tại phiên tòa, nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày:
Vào lúc 19 giờ 50 phút ngày 06/12/2020, ông Nguyễn Đ Hoàng điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát 73D1 – 3369 lưu thông trên đường số 4 Khu công nghiệp Hòa Khánh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng theo hướng từ Hòa Khánh đi Hòa Sơn thì xảy ra tai nạn giao thông với xe ô tô tải mang biển kiểm soát 43C – 121.43 (xe của công ty TNHH L đứng tên chủ sở hữu) do ông Lê Ngọc P làm tài xế đang đậu bên đường. Hậu quả dẫn đến ông Nguyễn Đ Hoàng bị thương nặng và được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đà Nẵng, đến 19 giờ 30 phút ngày 07/12/2020 thì tử vong. Lỗi của ông Lê Ngọc P trong vụ tai nạn là người điều khiển xe ô tô tải mang biển kiểm soát 43C – 121.43 đang đỗ trái phép trên đường số 4 Khu công nghiệp Hòa Khánh trong trạng thái lấn chiếm một phần đường xe chạy, không đặt biển báo nguy hiểm ở phía trước và phía sau xe theo đúng quy định pháp luật về giao thông đường bộ.
Bà A yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Lê Ngọc P và công ty TNHH L phải liên đới bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Nguyễn Đ Hoàng gồm: Bà Trần Thị A, bà Trần Thị Nh, cháu Nguyễn Hoàng Đ, cụ thể như sau:
1. Bồi thường tổn thất về vật chất:
* Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm: Chi phí điều trị nội trú: 12.446.693 đồng.
* Chi phí hợp lý cho việc mai táng: Gồm các khoản chi phí sau:
– Chi phí chở tử thi về địa phương: 9.500.000 đồng;
– Chi phí dựng trại che rạp: 2.000.000 đồng;
– Chi phí mua quan tài: 10.000.000 đồng;
– Chi phí khâm niệm, khăn tay, hương nén hoa: 8.000.000 đồng;
– Chi phí thuê xe ủi đường lên núi chỗ mai táng: 16.000.000 đồng;
– Chi phí lo ăn uống cho bà con hàng xóm phục vụ đám tang: 15.000.000 đồng;
– Chi phí khác (mở cửa mã, làm tuần, …): 5.000.000 đồng. Tổng chi phí hợp lý cho việc mai táng là 65.500.000 đồng.
* Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng:
– Đối với con trai của ông Nguyễn Đ Hoàng là cháu Nguyễn Hoàng Đ, sinh ngày: 22/3/2020:
Tại thời điểm ông Nguyễn Đ Hoàng chết, cháu Nguyễn Hoàng Đ chỉ mới 09 (chín) tháng tuổi. Do đó, cháu Nguyễn Hoàng Đ được hưởng tiền cấp dưỡng từ thời điểm ông Nguyễn Đ Hoàng chết cho đến khi cháu đủ mười tám tuổi với mức cấp dưỡng 2.000.000 đồng/tháng và yêu cầu được nhận tiền cấp dưỡng một lần với giá trị tương ứng là: 207 tháng x 2.000.000 đồng/tháng = 414.000.000 đồng.
– Đối với mẹ ruột của ông Nguyễn Đ Hoàng là bà Trần Thị Nh, sinh ngày: 27/11/1958:
Tại thời điểm ông Nguyễn Đ Hoàng chết, bà Nh 62 tuổi. Bà Nh bị gãy xương cột sống nên không thể lao động kiếm sống, mọi chi phí sinh hoạt hằng ngày đều phụ thuộc vào tiền phụ cấp hàng tháng 2.000.000 đồng do con trai là ông Nguyễn Đ Hoàng gửi về. Ngoài ra, bà Nh không có tài sản nào khác để tự nuôi bản thân. Nay ông Hoàng chết, không còn ai chu cấp tiền sinh hoạt cho bà Nh nên bà Nh cần được hưởng tiền cấp dưỡng được tính thời điểm ông Nguyễn Đ Hoàng chết cho đến khi bà Nh chết với mức cấp dưỡng 2.000.000 đồng/tháng, giá trị tạm tính là: 500.000.000 đồng.
2. Bồi thường tổn thất về tinh thần:
– Bù đắp tổn thất về tinh thần cho gia đình bà An vì cái chết của ông Nguyễn Đ Hoàng đem lại sự mất mát lớn cho gia đình bà An với giá trị bồi thường bằng 100 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, giá trị tương ứng là: 100 x 1.490.000 đồng/tháng = 149.000.000 đồng.
Tổng số tiền nguyên đơn yêu cầu ông Lê Ngọc P và công ty TNHH L phải bồi thường cho gia đình bà A là 1.140.946.693 đồng.
Quá trình tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn là ông Lê Ngọc P trình bày:
Ông là lái xe theo hợp đồng của công ty TNHH L, ông xác định ngày 06/12/2020 có đỗ xe ô tô tải mang biển kiểm soát 43C – 121.43 trên đường Khu công nghiệp Hòa Khánh, quận Liên chiểu, thành phố Đà Nẵng để vào quán ăn thì xảy ra sự việc như người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày. Khi đỗ xe thì phía trước và sau xe không có gì để báo hiệu. Ông xác định nguyên nhân xảy ra tai nạn là có một phần lỗi của ông do ông không đặt biển cảnh báo nguy hiểm khi đỗ xe trên đường. Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bồi thường thì đề nghị Tòa án giải quyết theo đúng quy định của pháp luật. Hiện nay hoàn cảnh gia đình ông rất khó khăn, có hai con nhỏ, vợ thường xuyên đau ốm nên trong khả năng ông chỉ bồi thường được số tiền 10.000.000 đồng.
Tại phiên tòa, người đại diện của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty TNHH Ltrình bày: Xe ô tô tải mang biển kiểm soát 43C – 121.43 là tài sản thuộc sở hữu của công ty TNHH L. Ông Lê Ngọc P là nhân viên lái xe của công ty, được công ty bàn giao xe ô tô tải mang biển kiểm soát 43C – 121.43 để quản lý, sử dụng phục vụ cho công việc của công ty. Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ông P và công ty TNHH Lliên đới bồi thường thì đề nghị Tòa án giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của cháu Nguyễn Hoàng Đ là bà Trần Thị An trình bày:
Bà thống nhất đề nghị Tòa án giải quyết buộc ông Lê Ngọc P và Công ty TNHH Lliên đới bồi thường số tiền 1.140.946.693 đồng cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Nguyễn Đ Hoàng.
Tại văn bản trình bày ý kiến ngày 21/5/2021, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị Nh trình bày:
Bà thống nhất với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Lê Ngọc P và Công ty TNHH Lliên đới bồi thường số tiền 1.140.946.693 đồng do tính mạng của con trai bà là ông Nguyễn Đ Hoàng bị xâm phạm. Hiện nay bà không còn khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi bản thân và trước giờ sống phụ thuộc vào tiền cấp dưỡng của con trai.
Tài liệu, chứng cứ của vụ án: Đơn khởi kiện, đơn đề nghị bổ sung yêu cầu khởi kiện, bản sao CMND, sổ tạm trú của nguyên đơn, bản trình bày ý kiến của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, bản tự khai của bị đơn, văn bản trình bày ý kiến của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nh, Thông báo về việc không khởi tố vụ án hình sự số 05 ngày 03/02/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Liên Chiểu và hồ sơ vụ tai nạn giao thông xảy ra ngày 06/12/2020, trích lục khai sinh, trích lục khai tử, bảng kê chi phí điều trị nội trú, các giấy nhận tiền, tờ khai hàng thừa kế của ông Nguyễn Đ Hoàng.
* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, các đương sự đã chấp hành đúng những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 584, 585, 586, 587, 590, 591, 593, 601 của Bộ luật dân sự 2015 chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và xử: Buộc ông Lê Ngọc P và Công ty TNHH Lcó trách nhiệm liên đới bồi thường 40% các khoản thiệt hại cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Nguyễn Đ Hoàng, gồm: Bà Trần Thị A, bà Trần Thị Nh, cháu Nguyễn Hoàng Đ. Các khoản thiệt hại gồm: Chi phí cứu chữa, điều trị cho ông Hoàng 3.245.819 đồng, chi phí hợp lý cho việc mai táng số tiền 29.500.000 đồng gồm:
Chi phí chở tử thi về địa phương: 9.500.000 đồng; chi phí dựng trại che rạp:
2.000.000 đồng; chi phí mua quan tài: 10.000.000 đồng; chi phí khâm niệm, khăn tay, hương nén hoa: 8.000.000 đồng. Chi phí bù đắp tổn thất về tinh thần bằng 70 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, cụ thể là: 70 x 1.490.000 đồng/tháng = 104.300.000 đồng. Tiền cấp dưỡng cho cháu Nguyễn Hoàng Đ, sinh ngày 22/3/2020 với mức cấp dưỡng 1.490.000 đồng/ tháng. Thời điểm cấp dưỡng kể từ thời điểm ông Hoàng bị chết là ngày 07/12/2020 cho đến khi cháu Đ đến tuổi thành niên. Như vậy, ông Lê Ngọc P và Công ty TNHH Lmỗi người phải có trách nhiệm bồi thường số tiền 27.409.163 đồng và có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Hoàng Đ mỗi tháng 298.000 đồng, kể từ ngày 07/12/2020 cho đến khi cháu Nguyễn Hoàng Đ đủ tuổi thành niên (18 tuổi).
Về án phí dân sự sơ thẩm, ông Lê Ngọc P và Công ty TNHH L phải chịu theo quy định của pháp luật.
Nhận định của tòa án
Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Nguyên đơn khởi kiện bị đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, bị đơn có địa chỉ nơi cư trú tại huyện Hòa Vang. Do vậy, đây là tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang theo quy định tại Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Nh đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt và có đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Nh.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy: Vào lúc 19 giờ 50 phút ngày 06/12/2020, ông Nguyễn Đ Hoàng điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 73D1 – 3369 lưu thông trên đường số 4 Khu công nghiệp Hòa Khánh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng theo hướng từ Hòa Khánh đi Hòa Sơn thì xảy ra tai nạn giao thông với xe ô tô tải mang biển kiểm soát 43C – 121.43 thuộc sở hữu của công ty TNHH Ldo ông Lê Ngọc P làm tài xế đang đỗ trên đường. Hậu quả dẫn đến ông Nguyễn Đ Hoàng bị thương nặng và được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đà Nẵng, đến 19 giờ 30 phút ngày 07/12/2020 thì tử vong. Vụ việc đã được Công an quận Liên Chiểu giải quyết và không khởi tố vụ án hình sự theo Thông báo không khởi tố vụ án hình sự số 05 ngày 03/02/2021. Theo kết luận của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Liên Chiểu xác định lỗi dẫn đến vụ tai nạn giao thông nói trên là lỗi hỗn hợp, ông Hoàng và ông P đều có lỗi. Do đó, bà Trần Thị An là vợ của ông Nguyễn Đ Hoàng khởi kiện yêu cầu ông Lê Ngọc P và công ty TNHH Lphải liên đới bồi thường thiệt hại do tính mạng của ông Hoàng bị xâm phạm là có cơ sở, cần chấp nhận.
[3] Theo quy định tại Điều 591 Bộ luật dân sự 2015 thì thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm trong vụ án này bao gồm:
[3.1] Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm: Gồm các khoản sau:
a. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm: Chi phí cho việc cứu chữa, điều trị cho ông Hoàng tại bệnh viện theo Bảng kê chi phí điều trị nội trú số 01/KBCB của Khoa Sơ cấp cứu, Hồi sức ngoại khoa thuộc Bệnh viện Đà Nẵng là 3.245.819 đồng.
b. Chi phí hợp lý cho việc mai táng: Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thì các khoản chi phí hợp lý cho việc mai táng sau đây được chấp nhận:
– Chi phí chở tử thi về địa phương 9.500.000 đồng theo “Giấy nhận tiền về việc chở thi hài từ bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng về xã Quảng Trường – Quảng Trạch – Quảng Bình” ngày 07/12/2020;
– Chi phí dựng trại che rạp để làm đám ma 2.000.000 đồng theo “Giấy nhận tiền về việc chi phí dựng trại che rạp” ngày 10/12/2020;
– Chi phí mua quan tài 10.000.000 đồng theo “Giấy nhận tiền chiếc quan tài” ngày 07/12/2020;
– Chi phí khâm liệm, khăn tay, hương nén hoa: 8.000.000 đồng theo “Giấy nhận tiền về việc chi khâm liệm, khăn tay, hương nén hoa” ngày 10/12/2020.
Tổng chi phí hợp lý cho việc mai táng là 29.500.000 đồng.
c. Tiền cấp dưỡng cho những người mà ông Nguyễn Đ Hoàng có nghĩa vụ cấp dưỡng: Ông Hoàng có 01 con là cháu Nguyễn Hoàng Đ, sinh ngày 22/3/2020. Trước khi bị xâm hại tính mạng thì ông Hoàng có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nên cần xem xét và chấp nhận khoản tiền cấp dưỡng đối với cháu Nguyễn Hoàng Đ; mức cấp dưỡng hàng tháng bằng mức lương cơ sở theo quy định của Nhà nước là 1.490.000 đồng/ tháng là phù hợp. Thời điểm cấp dưỡng kể từ thời điểm ông Hoàng bị chết là ngày 07/12/2020 cho đến khi cháu Đ đủ tuổi thành niên.
[3.2] Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại ông Nguyễn Đ Hoàng: Ông Hoàng là trụ cột trong gia đình, có mẹ già con thơ, cái chết của ông Hoàng là mất mát to lớn cho gia đình ông Hoàng nên Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần bằng 70 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định là phù hợp, cụ thể là: 70 x 1.490.000 đồng/tháng = 104.300.000 đồng.
[3.3] Như vậy, tổng các khoản thiệt hại trong do tính mạng của ông Nguyễn Đ Hoàng bị xâm phạm là: 3.245.819 đồng + 29.500.000 đồng + 104.300.000 đồng = 137.045.819 đồng và cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Hoàng Đ mỗi tháng 1.490.000 đồng kể từ ngày 07/12/2020 cho đến khi cháu Nguyễn Hoàng Đ đủ tuổi thành niên (18 tuổi).
[3.4] Đối với yều cầu bồi thường của nguyên đơn về các khoản chi phí cho việc mai táng như: Chi phí thuê xe ủi đường lên núi chỗ mai táng: 16.000.000 đồng; chi phí lo ăn uống cho bà con hàng xóm phục vụ đám tang: 15.000.000 đồng; chi phí khác (mở cửa mã, làm tuần, …): 5.000.000 đồng không phù hợp với các quy định của pháp luật nên không được chấp nhận. Đối với yêu cầu cấp dưỡng cho bà Trần Thị Nh là mẹ của ông Hoàng thì nguyên đơn không cung cấp được chứng cứ chứng minh việc trước khi chết thì ông Hoàng là người đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng bà Nh và bà Nh không có khả năng lao động, không có tài sản. Tại phiên tòa, bà An xác định ngoài ông Hoàng thì bà An còn 02 người con nữa nên đối với yêu cầu cấp dưỡng cho bà Nh Hội đồng xét xử không có cơ sở để chấp nhận. Nguyên đơn yêu cầu cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Hoàng Đ một lần nhưng ông P và công ty TNHH Lchỉ đồng ý cấp dưỡng hàng tháng nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu cấp dưỡng một lần của nguyên đơn.
[4] Về trách nhiệm phải chịu thiệt hại xảy ra: Theo kết luận của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Liên Chiểu xác định lỗi trong vụ tại nạn giao thông này là do ông Hoàng khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ có sử dụng bia và có nồng độ cồn trong máu, vi phạm khoản 8, khoản 23 Luật giao thông đường bộ là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến vụ tai nạn giao thông; còn ông P điều khiển xe ô tô tải BKS 43C-121.43 đỗ xe trên đường số 4 Khu công nghiệp Hòa Khánh chiếm một phần đường xe chạy nhưng không đặt biển báo nguy hiểm phía trước và phía sau xe theo quy định nên vi phạm điểm d khoản 3 Điều 18 Luật giao thông đường bộ. Như vậy thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm trong vụ tai nạn giao thông này được chia phần theo lỗi, cụ thể như sau: Ông Hoàng phải chịu 6 phần thiệt hại, ông P phải chịu 4 phần thiệt hại.
[5] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xét thấy xe ô tô tải BKS 43C- 121.43 là nguồn nguy hiểm cao độ thuộc sở hữu của công ty TNHH L, ông P là lái xe của Công ty TNHH Lđược công ty bàn giao xe ô tô để quản lý, sử dụng. Do vậy cần buộc ông P và Công ty TNHH Lphải liên đới bồi thường cho gia đình ông Hoàng 4 phần thiệt hại do tính mạng ông Hoàng bị xâm phạm, cụ thể:
137.045.819 đồng x 40% = 54.818.327 đồng và bồi thường cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Hoàng Đ mỗi tháng 1.490.000 đồng x 40% = 596.000 đồng/ tháng kể từ ngày 07/12/2020 cho đến khi cháu Nguyễn Hoàng Đ đủ tuổi thành niên (18 tuổi). Tại phiên tòa, đại diện của công ty TNHH Lvà ông P xác định và thỏa thuận trách nhiệm bồi thường thiệt hại là do ông P và công ty TNHH Lliên đới bồi thường với nghĩa vụ chia phần ngang nhau. Do đó, trách nhiệm bồi thường của ông P và Công ty TNHH Llà bằng nhau, cụ thể: Ông P và Công ty TNHH Lmỗi người có trách nhiệm bồi thường cho gia đình ông Hoàng số tiền là 54.818.327 đồng : 2 = 27.409.163 đồng và có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Hoàng Đ mỗi tháng 596.000 đồng : 2 = 298.000 đồng, kể từ ngày 07/12/2020 cho đến khi cháu Nguyễn Hoàng Đ đủ tuổi thành niên (18 tuổi).
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông P và Công ty TNHH Lmỗi người phải chịu theo qui định của pháp luật, cụ thể: Án phí dân sự có giá ngạch về bồi thường khoản tiền thiệt hại là 27.409.163 đồng x 5% = 1.370.000 đồng và án phí về cấp dưỡng nuôi con là 300.000 đồng. Tổng cộng là 1.670.000 đồng. Bà An được miễn toàn bộ án phí có giá ngạch.
Vì các lẽ trên,
Quyết định
Căn cứ Điều 26, 35, 39, 147, 227, 235, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 584, 585, 586, 587, 590, 591, 593, 601 của Bộ luật dân sự năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị A đối ông Lê Ngọc P về việc “Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm”.
Tuyên xử:
1. Buộc ông Lê Ngọc P và Công ty TNHH L có nghĩa vụ liên đới bồi thường cho những người thừa kế của ông Nguyễn Đ Hoàng gồm: bà Trần Thị A, bà Trần Thị Nh và cháu Nguyễn Hoàng Đ số tiền 54.818.327 đồng (năm bốn triệu tám trăm mười tám nghìn ba trăm hai bảy đồng). Trong đó, ông Lê Ngọc P phải bồi thường số tiền 27.409.163 đồng (hai bảy triệu bốn trăm lẽ chín nghìn một trăm sáu ba đồng); Công ty TNHH Lphải bồi thường số tiền 27.409.163 đồng (hai bảy triệu bốn trăm lẽ chín nghìn một trăm sáu ba đồng).
2. Buộc ông Lê Ngọc P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Hoàng Đ, sinh ngày 22/3/2020 mỗi tháng 298.000 đồng (hai trăm chín tám nghìn đồng). Thời gian cấp dưỡng tính từ ngày 07/12/2020 cho đến khi cháu Nguyễn Hoàng Đ đủ tuổi thành niên (18 tuổi). Buộc Công ty TNHH Lcó nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Hoàng Đ, sinh ngày 22/3/2020 mỗi tháng 298.000 đồng (hai trăm chín tám nghìn đồng). Thời gian cấp dưỡng tính từ ngày 07/12/2020 cho đến khi cháu Nguyễn Hoàng Đ đủ tuổi thành niên (18 tuổi).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thi hành thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
3. Án phí dân sự sơ thẩm:
Miễn toàn bộ án phí có giá ngạch cho bà Trần Thị A.
Buộc ông Lê Ngọc P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền 1.670.000 đồng (một triệu sáu trăm bảy mươi nghìn đồng).
Buộc Công ty TNHH Lphải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền 1.670.000 đồng (một triệu sáu trăm bảy mươi nghìn đồng).
4. Án xử công khai sơ thẩm, báo cho các bên đương sự biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
5. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự