Dấu hiệu của tội phạm là gì?

Dấu hiệu của tội phạm là gì? Theo Luật hình sự Việt Nam, hành vi bị coi là tội phạm có 4 dấu hiệu gồm: Tính nguy hiểm cho xã hội; Tính trái pháp luật hình sự; Tính có lỗi; Tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm. 

» Khi nào khởi tố vụ án hình sự?

» 4 yếu tố cấu thành tội phạm

Quy định về Dấu hiệu của tội phạm

1. Tội phạm là gì?

Khái niệm tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 8:

“1. Tội phạm là hành vi nguy him cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.”

2. Các dấu hiệu cơ bản của tội phạm

Một hành vi được coi là tội phạm khi thỏa mãn đủ 4 dấu hiệu. Cụ thể như sau:

2.1. Tính nguy hiểm cho xã hội

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội… được quy định khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự. Như vậy tính nguy hiểm chính là dấu hiệu quan trọng nhất quyết định một tội phạm, nó được thể hiện thông qua hành vi nguy hiểm cho xã hội.

Khoản 2 Điều 8 : ”Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác”. Như vậy dấu hiệu tội phạm được coi là dấu hiệu tiên quyết, quyết định các dấu hiệu khác.
Một hành vi có đủ 3 dấu hiêu của tội phạm:

  1. Tính nguy hiểm cho xã hội;
  2. Tính trái pháp luật hình sự;
  3. Tính có lỗi.

Nhưng tính nguy hiểm cho xã hội của nó là không đáng kế thì không bị coi là tội phạm.

Tính nguy hiểm cho xã hội cũng là căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 25 Bộ luật hình sự.

Để xác định tính nguy hiểm cho xã hội, thường dựa trên các căn cứ sau:

  • Mức độ gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội
  • Tính chất và mức độ lỗi
  • Tính chất của quan hệ xã hội bị xâm hại
  • Phương pháp, thủ đoạn, phương tiện phạm tội
  • Động cơ và mục đích của người phạm tội
  • Hoàn cảnh xã hội, nhân thân người phạm tội,…

2.2. Tính trái pháp luật hình sự

Điều 2 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định:

“Điều 2. Cơ sở của trách nhiệm hình sự
1. Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

Theo đó, một hành vi gây nguy hiểm cho xã hội sẽ không bị coi là tội phạm nếu hành vi đó không được quy định trong Bộ luật Hình sự. Nói cách khác, người có hành vi nguy hiểm cho xã hội sẽ không phạm tội nếu pháp luật hình sự không quy định hành vi của người đó.

Tính trái pháp luật là dấu hiệu rất quan trọng của tội phạm. Tính trái pháp luật là căn cứ để đảm bảo quyền lợi của công dân, tránh việc xử lý người tội phạm một cách tùy tiện…

Tính trái pháp luật hình sự và tính nguy hiểm cho xã hội là hai dấu hiệu có mối quan hệ biện chứng với nhau, tính trái pháp luật hình sự là dấu hiệu về mặt hình thức pháp lý phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội.

2.3. Tính có lỗi

Lỗi là thái độ tâm lý chủ quan của con người đối với hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện và đối với hậu quả của hành vi đó dưới hình thức vô ý hoặc cố ý. Bản chất của lỗi thể hiện ở việc người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức được nguy hiểm đó nhưng tự mình lựa chọn và quyết định thực hiện hành vi trong khi có đủ điều kiện để lựa chọn một cách xử sự khác phù hợp với lợi ích của xã hội.

– Lỗi cố ý:

  • Lỗi cố ý trực tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra
  • Lỗi cố ý gián tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng để mặc cho hậu quả xảy ra.

– Lỗi vô ý:

  • Lỗi vô ý do quá tự tin: Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
  • Lỗi vô ý do cẩu thả: Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.

Luât hình sự không chấp nhận việc quy tội khách quan chỉ thông qua hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà không căn cứ vào lỗi của người thực hiện hành vi đó. 
Mục đích của áp dụng hình phạt là trừng phạt người có lỗi chứ không phải trừng phạt hành vi.

2.4. Tính phải chịu hình phạt

Tính phải chịu hình phạt cũng là dấu hiệu đặc trưng của tội phạm. Chỉ có hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt, không có tội phạm cũng không có hình phạt.

Tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu kèm theo của dấu hiệu tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự. Tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự là cơ sở để cụ thể hóa tính phải chịu hình phạt, tính nguy hiểm cho xã hội càng lớn thì hình phạt càng cao. Cũng vì tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà bất cứ hành vi phạm tội nào cũng có thể bị đe dọa áp dụng hình phạt.

» Luật sư bào chữa vụ án hình sự

» Quy trình khởi tố vụ án hình sự