Quy định về lấy lời khai trong tố tụng hình sự

Quy định về lời khai trong tố tụng hình sự. Quy định về hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, đối chất, nhận dạng và nhận biết giọng nói của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã được quy định cụ thể hơn nhằm đảm bảo tính khách quan, chính xác, bảo vệ quyền con người.

Quy định về lấy lời khai trong tố tụng hình sự

1. Khái niệm lời khai

Lời khai là lời trình bày của bị can, bị cáo, người bị hại, người bị tạm giữ, người làm chứng, người có quyền và nghĩa vụ liên quan tới vụ án, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trong vụ án hình sự mà người này đã thực hiện hoặc biết được theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án theo trình tự luật định nhằm giải quyết vụ án một cách đúng đắn, khách quan.

Lời khai của bị can, bị cáo là lời trình bày về những tình tiết của vụ án. Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ, nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án.

Lời khai của người bị hại là lời trình bày về những tình tiết của vụ án, quan hệ giữa họ với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Những tình tiết do người bị hại trình bày không được dùng làm chứng cứ, nếu họ không thể nói rõ vì sao họ biết được tình tiết đó.

Lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ là lời trình bày về những tình tiết liên quan đến việc họ bị tình nghỉ thực hiện tội phạm.

Lời khai của người làm chứng là lời trình bày về những gì mà họ biết về vụ án, nhân thân của bị can, bị cáo, người bị hại, quan hệ giữa họ với người bị bắt, bị tạm giữ, bị hại. Những tình tiết do người làm chứng trình bày sẽ không được dùng làm chứng cứ nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.

2. Lấy lời khai trong tố tụng hình sự

Việc lấy lời khai phải đảm bảo thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục của pháp luật tố tụng hình sự. Theo đó, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cấm các hành vi lấy lời khai của bị can, bị cáo hoặc những người có liên quan khác vào ban đêm.

Trừ một số trường hợp cấp thiết, không thể trì hoãn chờ trời sáng được, nhưng phải được ghi nhận rõ ràng vào biên bản.

Trước khi tiến hành lấy lời khai thì điều tra viên phải có giấy triệu tập và gửi cho người làm chứng. Giấy triệu tập phải có các nội dung như họ tên, chỗ ở hiện tại của người làm chứng, ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm có mặt, nếu vắng mặt thì ghi nhận lý do chính đáng.

Giấy triệu tập được giao trực tiếp cho người làm chứng hoặc gửi thông qua chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó đang có mặt.

Trong các trường hợp lấy lời khai khi bắt giữ khẩn cấp thì cần đảm bảo:

– Cơ quan điều tra phải thông báo trước thời gian, địa điểm, hỏi cung cho người bào chữa, người đại diện hợp pháp của họ.

+ Nếu người chưa đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì có thể bị tạm giam, tạm giữ khi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt giữ nếu phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Khi ra lệnh bắt giam thì phải thông báo cho gia đình hoặc người đại diện hợp pháp của họ.

+ Việc lấy lời khai sẽ được tiến hành tại nơi điều tra hoặc tại nơi ở của người đó, đảm bảo bố trí phòng hỏi cung phù hợp để giảm bớt sự căng thẳng, sợ hãi

– Việc hỏi cung tuyệt đối phải diễn ra minh bạch, không bạo lực theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự

+ Tuyệt đối không hỏi cung vào ban đêm, trừ một số trường hợp cấp thiết theo luật quy định. Nghiêm cấm điều tra viên, Kiểm sát viên bức cung hoặc dùng nhục hình đối với bị can.

+ Nghiêm cấm hành vi Điều tra viên, Kiểm sát viên tự mình thay đổi hoặc thêm bớt nội dung lời khai, nếu có sự thay đổi thì phải xác nhận vào từng trang.

+ Khi diễn ra việc hỏi cung thì cần có sự tham gia của người bào chữa, người đại diện hợp pháp của bị can, đồng thời phải giải thích rõ về quyền và nghĩa vụ của họ. Sau khi kết thúc thì tất cả người tham gia đều phải ký xác nhận vào biên bản hỏi cung.

– Người bào chữa, người đại diện hợp pháp có thể hỏi người bị bắt, bị tạm giam, tạm giữ là người dưới 18 tuổi nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý.

– Hạn chế tố đa số lần lấy lời khai của người chưa thành niên. Thời gian lấy lời khai của người chưa thành niên sẽ không quá hai lần trên 1 ngày và mỗi lần không được pháp diễn ra quá 2 giờ đồng hồ, trừ trường hợp vụ án có tình tiết phức tạp đã được Bộ luật quy định.

– Cơ quan điều tra hạn chế đối đa việc tiến hành đối chất, đặc biệt đối với tường hợp người bị hại là trẻ em, đảm bảo không làm tổn thương đến tâm lý, tinh thần của họ.

3. Mẫu biên bản ghi lời khai trong tố tụng hình sự

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BIÊN BẢN GHI LỜI KHAI (1) 

Hồi…giờ.. ngày …tháng …  năm…… tại

Tôi:……………………………………………..thuộc Cơ quan……………………………………….

và ông/bà:…………………………………………..

Căn cứ Điều 178 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiến hành lập biên bản ghi lời khai của:

Họ tên: ………. Giới tính:…….

Tên gọi khác:………………………………………………………….

Sinh  ngày…..tháng ………năm … tại:…………………………………

Quốc tịch:…..Dân tộc:…….Tôn giáo:…………………………………….

Số điện thoại để liên hệ khi cần thiết phục vụ công tác điều tra:

Số CMND/Thẻ CCCD/Hộ chiếu:………………………………………….

cấp ngày ….. tháng …. năm……. Nơi cấp:……………………………

Nơi cư trú:…………………………………………………………………………

Tư cách tham gia tố tụng:……………………………………………………

Người khai đã được giải thích quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều (2) …………. Bộ luật Tố tụng hình sự và cam đoan chịu trách nhiệm về lời khai của mình.

HỎI VÀ ĐÁP

– Biên bản là một loại văn bản ghi chép lại những sự việc đã xảy ra hoặc đang xảy ra. Khi tiến hành hoạt động tố tụng các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng , người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản theo mẫu thống nhất. Điều 87 Bộ luật Tố tụng hình sự (quy định về chứng cứ) tại điểm đ khoản 1 quy định biên bản về hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án là một trong những nguồn của chứng cứ. Chính vì vậy, chúng luôn luôn có giá trị để chứng minh về một tình tiết nào đó của vụ án hình sự. Biên bản được lập trong quá trình tiến hành tố tụng phải được đưa vào hồ sơ vụ án.

– Điều tra viên, Cán bộ điều tra lập biên bản phải đọc biên bản cho người tham gia tố tụng nghe, giải thích cho họ quyền được bổ sung và nhận xét về biên bản. Ý kiến bổ sung, nhận xét được ghi vào biên bản; trường hợp không chấp nhận bổ sung thì ghi rõ lý do vào biên bản. Người tham gia tố tụng, Điều tra viên, Cán bộ điều tra cùng ký tên vào biên bản.

– Trường hợp Kiểm sát viên, Kiểm tra viên lập biên bản thì biên bản được thực hiện theo quy định tại Điều này. Biên bản phải được chuyển ngay cho Điều tra viên để đưa vào hồ sơ vụ án. Việc lập biên bản trong giai đoạn khởi tố được thực hiện theo quy định tại Điều này.

                          NGƯỜI KHAI                                                           CÁN BỘ GHI LỜI KHAI

4. Đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói (Điều 189 đến Điều 191).

– Về đối chất (Điều 189): ràng buộc về trách nhiệm của Kiểm sát viên phải trực tiếp kiểm sát hoạt động đối chất trong điều tra các vụ án hình sự. BLTTHS lần này đã quy định cụ thể trách nhiệm của Kiểm sát viên trong việc kiểm sát hoạt động đối chất.

+ Khoản 1 Điều 189 quy định căn cứ để đối chất và kiểm sát việc đối chất là, trong trường hợp có mâu thuẫn trong lời khai giữa hai hay nhiều người “mà đã tiến hành các biện pháp điều tra khác nhưng chưa giải quyết được mâu thuẫn” thì Điều tra viên tiến hành đối chất; trước khi tiến hành đối chất, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc đối chất. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc đối chất. Nêu Kiêm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản đôi chât.

+ Khoản 2 Điều 189 bổ sung quy định: “Trước khi đối chất”, Điều tra viên phải giải thích cho người làm chứng hoặc bị hại tham gia để cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố tình khai báo gian dối.

+ Khoản 3 Điều 189 bổ sung quy định về nội dung, cách thức đối chất cụ thể, rõ ràng hơn, đó là “trong quá trình đối chất, Điều tra viên có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật có liên quan”.

+ Khoản 4 về hình thức lập biên bản, đã bổ sung thêm nội dung “Việc đối chất có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh”.

– Về nhận dạng (Điều 190): Cũng như hoạt động đối chất, BLTTHS quy định “trước khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc nhận dạng. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát. Nêu Kiêm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản nhận dạng”; Khoản 2 Điều 190 quy định khi nhận dạng thì “người làm chứng, bị hại hoặc bị can, người chứng kiến” phải tham gia. Đây là quy định mới, bắt buộc mà Kiểm sát viên cần lưu ý khi thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra.

– Về nhận biết giọng nói (Điều 191): Đây là quy định mới của BLTTHS, cụ thể:

+ Khoản 1 Điều 191 quy định, khi cần thiết, Điều tra viên có thể cho bị hại, người làm chứng hoặc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can nhận biết giọng nói. Số giọng nói được đưa ra để nhận biết ít nhất phải là ba và phải có âm sắc, âm lượng tương tự nhau.Trước khi tiến hành nhận biết giọng nói, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Nêu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản nhận biết giọng nói.

+ Khoản 2 Điều 191 quy định, khi nhận biết giọng nói, phải có sự tham gia của Giám định viên về âm thanh, người được yêu cầu nhận biết giọng nói, người được đưa ra để nhận biết giọng nói (trừ trường hợp việc nhận biết giọng nói được thực hiện qua phương tiện ghi âm) và người chứng kiến.

+ Khoản 3 Điều 191 quy định, nếu người làm chứng, bị hại được yêu cầu nhận biết giọng nói thì trước khi tiến hành, Điều tra viên phải giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố ý khai báo gian dối. Việc nay phải ghi vào biên bản.

+ Khoản 4 Điều 191 quy định, Điều tra viên phải hỏi trước người được yêu cầu nhận biết giọng nói về những đặc điểm mà nhờ đó họ có thể nhận biết được giọng nói.

Trong quá trình tiến hành nhận biết giọng nói, Điều tra viên không được đặt câu hỏi gợi ý. Sau khi người được yêu cầu nhận biết giọng nói đã xác nhận được tiếng nói trong số giọng nói được đưa ra thì Điều tra viên yêu cầu họ giải thích là họ đã căn cứ vào đặc điểm gì mà xác nhận giọng nói đó.

+ Khoản 5 Điều 191 quy định, biên bản nhận biết giọng nói được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này. Biên bản ghi rõ nhân thân, tình trạng sức khỏe của người được yêu cầu nhận biết giọng nói và của những người được đưa ra để nhận biết giọng nói; đặc điểm của giọng nói được đưa ra để nhận biết, lời trình bày của người nhận biết giọng nói; điều kiện về không gian khi thưc hiên nhận biết giọng nói.

» Khi nào thì lời khai của người làm chứng không được xem là chứng cứ hình sự