Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (GCN) trong tranh chấp dân sự không phải là một yêu cầu khởi kiện; mà chỉ là hệ quả phát sinh khi giải quyết tranh chấp dân sự, quá trình giải quyết, xét xử Tòa án buộc phải xem xét, đánh giá tính hợp pháp của GCN để hủy hay không hủy mới đảm bảo giải quyết triệt để vụ án.
Mục lục bài viết
-
Yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong tranh chấp dân sự
- 1. Thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt
- 2. Giải quyết vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định cá biệt
- 3. Về hình thức, nội dung đơn khởi kiện
- 4. Các phương thức bảo vệ quyền dân sự
- 5. Không áp dụng thời hiệu quy định trong pháp luật tố tụng hành chính khi xem xét yêu cầu hủy quyết định cá biệt
Yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong tranh chấp dân sự
1. Thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt
Căn cứ khoản 1 Điều 34 BLTTDS 2015 quy định Thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức
“1. Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết.”
Như vậy, việc xem xét huỷ GCN là quyền của Toà án khi giải quyết vụ việc dân sự mà Toà án có nhiệm vụ giải quyết mà không phụ thuộc vào việc đương sự có yêu cầu hay không.
2. Giải quyết vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định cá biệt
Căn cứ mục II của giải đáp nghiệp vụ số 02/GĐ- TANDTC ngày 19/9/2016 giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự quy định
Khi giải quyết vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức thì Tòa án phải xem xét, đánh giá về tính hợp pháp của quyết định cá biệt đó.
Trường hợp quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và phải hủy quyết định đó mới bảo đảm giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự mà việc hủy quyết định đó không làm thay đổi thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự thì Tòa án đang giải quyết vụ việc dân sự tiếp tục giải quyết và xem xét hủy quyết định đó.
Như vậy, có thể hiểu, việc xem xét huỷ GCN là trách nhiệm của Toà án, không phải xuất phát từ yêu cầu của đương sự. Khi không phải là yêu cầu của đương sự thì đương sự không phải có nghĩa vụ đóng tạm ứng án phí, chịu án phí dân sự và quy định về thời hiệu yêu cầu cũng không được áp dụng trong trường hợp này.
3. Về hình thức, nội dung đơn khởi kiện
Căn cứ điểm g, khoản 4 Điều 189 BLTTDS 2015 quy định về nội dung đơn khởi kiện thì yêu cầu khởi kiện của đương sự
“4. Đơn khởi kiện phải có các nội dung chính sau đây: ….
g) Quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm; những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết đối với người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;”
Chủ thể bị yêu cầu phải thực hiện hoặc không thực hiện hành vi nhất định theo yêu cầu của người khởi kiện là người bị kiện. Trong khi đó, nếu huỷ GCN được xem như là một “yêu cầu khởi kiện” thì chủ thể phải thực hiện hành vi huỷ GCN lại không phải là người bị kiện mà là Toà án.
4. Các phương thức bảo vệ quyền dân sự
Đồng thời, Điều 11 BLDS 2015 quy định về các phương thức bảo vệ quyền dân sự như sau:
“Khi quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền:
1. Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của mình.
2. Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm.
3. Buộc xin lỗi, cải chính công khai.
4. Buộc thực hiện nghĩa vụ.
5. Buộc bồi thường thiệt hại.
6. Hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền.
7. Yêu cầu khác theo quy định của luật”.
Đối chiếu với định nghĩa về yêu cầu khởi kiện thì chỉ có khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 11 BLDS 2015 là yêu cầu đối với người bị kiện và được xem là yêu cầu khởi kiện như quy định của BLTTDS 2015.
5. Không áp dụng thời hiệu quy định trong pháp luật tố tụng hành chính khi xem xét yêu cầu hủy quyết định cá biệt
Điều 5 Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2014 (viết tắt là TTLT 01/2014), hướng dẫn thi hành Điều 32a của BLTTDS năm 2004 quy định Tòa án không áp dụng thời hiệu quy định trong pháp luật tố tụng hành chính khi xem xét yêu cầu hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật. Như vậy, yêu cầu huỷ quyết định cá biệt có thể được xem như là một trong những phương thức của cá nhân, tổ chức khi thực hiện bảo vệ quyền dân sự bằng phương thức yêu cầu Toà án hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền nhưng không phải là yêu cầu khởi kiện của đương sự như BLTTDS 2015 định nghĩa. Vì vậy, so với những yêu cầu khởi kiện khác phải chịu sự giới hạn về thời hiệu yêu cầu thì yêu cầu xem xét huỷ GCN lại không chịu sự chi phối của thời hiệu.