Các trường hợp chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội trong vụ án hình sự được quy định tại Khoản 1 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018) như sau:
“Điều 76. Chỉ định người bào chữa
1. Trong các trường hợp sau đây nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ:
a) Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình;
b) Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.”
Theo quy định pháp luật hiện hành, để đảm bảo công bằng cho tất cả các bên – người bị hại và người bị buộc tội, pháp luật cho phép bị can, bị cáo được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho hành vi bị cáo buộc của mình. Tuy nhiên nếu nhìn từ tính phức tạp của quá trình giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề tự bào chữa là việc hết sức khó khăn. Quá trình giải quyết vụ án hình sự bao gồm nhiều vấn đề pháp lý của luật nội dung cũng như luật tố tụng như hành vi bị truy tố có dấu hiệu tội phạm hay không, nếu là tội phạm thì là tội gì, bị cáo có lỗi khi thực hiện hành vi đó hay không, lỗi cố ý hay vô ý, chứng cứ của bên buộc tội có hợp pháp hay không, việc bắt người, khám nhà có đúng luật hay không… Do vậy, bào chữa thông qua sự trợ giúp của người có kiến thức pháp luật và kinh nghiệm hoạt động tố tụng là hình thức phổ biến và chủ đạo.
Quyền bào chữa được xem như là phương tiện pháp lý cần thiết để người bị buộc tội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thừa nhận quyền bào chữa là thừa nhận tính tranh tụng trong hoạt động tố tụng – điều kiện không thể thiếu được cho việc xét xử khách quan, công minh. Càng mở rộng phạm vi quyền bào chữa bao nhiêu thì càng mở rộng tính tranh tụng bấy nhiêu và kết quả tương ứng là càng hạn chế khả năng làm oan sai người vô tội trong xét xử.
Về nguyên tắc, người bào chữa do người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ lựa chọn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, luật quy định sự tham gia của người bào chữa vào trong vụ án không phụ thuộc vào ý chí của bị can, bị cáo. Đó là các trường hợp mà những người bị buộc tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ yêu cầu Đoàn luật sư hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cử người bào chữa cho họ. Những trường hợp này liên quan đến các bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, hoặc bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình, bản thân những người này xét các đặc điểm thực tế ta thấy họ có nhiều đặc điểm bất lợi hơn so với những bị can, bị cáo khác. Do vậy, việc quy định những chủ thể này buộc phải được các cơ quan có thẩm quyền chỉ định người bào chữa để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho họ là hoàn toàn hợp lý và cần thiết.