Yêu cầu bảo vệ công lý, công bằng trong tố tụng hình sự pháp chế xã hội chủ nghĩa

Một số yêu cầu bảo vệ công lý, công bằng trong tố tụng hình sự, yêu cầu pháp chế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Mục lục:

    1. Yêu cầu bảo vệ công lý trong tố tụng hình sự
    2. Yêu cầu bảo vệ công bằng trong tố tụng hình sự
    3. Yêu cầu cơ bản của pháp chế xã hội chủ nghĩa

Yêu cầu bảo vệ công lý, công bằng trong tố tụng hình sự pháp chế xã hội chủ nghĩa

1.1. Yêu cầu bảo vệ công lý trong tố tụng hình sự

Hiến pháp năm 2013 đã quy định tại Điều 102: “TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý” Bảo vệ công lý trong việc giải quyết những vấn đề về bản chất pháp lý của vụ án là hoạt động làm sáng tỏ, gìn giữ những nội dung công lý trong việc xác định các sự kiện vi phạm pháp luật, trách nhiệm pháp lý, yêu cầu quyền pháp lý và những vấn đề’ khác có liên quan khi giải quyết những cáo buộc, tranh chấp pháp lý trong vụ án hình sự: 

Trong vụ án hình sự đầu tiên là xác định có hay không có sự kiện phạm tội. Đây là hoạt động xác định các tình tiết sự thật liên quan đến vụ án, đối chiếu với quy phạm pháp luật quy định về cấu thành tội phạm và những vấn đề khác liên quan được pháp luật hình sự quy định để định tội danh, từ đó giúp cho chủ thể xét xử xác định hành vi bị cáo buộc có phạm tội hay không, nếu có thì phạm tội gì, có còn trong thời hiệu truy cứu hay không.

Bảo vệ công lý trong việc xác định tội phạm chính là phải làm sáng tỏ sự thật khách quan liên quan đến các tình tiết của vụ án, sự thật đó là cơ sở quyết định có hay không có sự kiện tội phạm bị truy cứu. Nếu sự thật không được làm rõ thì phải xác định không có tội phạm. Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục đo Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”.

Sau khi đã xác định được tội phạm, vấn đề quyết định về loại hình phạt và mức hình phạt sẽ được đặt ra. Bảo vệ công lý trong vấn đề này sẽ đòi hỏi chủ thể xét xử phải xem xét toàn diện, hệ thống những vấn đề sau:

– Quyết định loại và mức hình phạt phải dựa trên những cơ sở nền tảng:

+ Sự thật khách quan liên quan đến những tình tiết xác định sự kiện pháp lý làm thay đổi trách nhiệm pháp lý (tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm, miễn, giảm trách nhiệm…), sự kiện làm chấm dứt trách nhiệm pháp lý (như đại xá, tình hình thực tế thay đổi…), sự kiện loại trừ trách nhiệm pháp lý (như phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết…); sự kiện liên quan đến các tình tiết phản ánh tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, nhân thân, việc chấp hành pháp luật của chủ thể phạm tội. ..;

+ Tôn trọng phẩm giá và quyền bình đẳng của con người khi áp dụng các loại và mức hình phạt, như hình phạt không được mang tính chất nhục mạ, hạ thấp phẩm giá con người, bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của các chủ thể phạm tội…

+ Tôn trọng yếu tố truyền thống văn hóa khi đánh giá, lựa chọn các giá trị trong việc quyết định loại và mức hình phạt. Ở Việt Nam, do truyền thống văn hóa đề’ cao tính cộng đồng nên sức mạnh dư luận xã hội là rất lớn. Việc quyết định hình phạt phải cân nhắc đến mức độ phản ứng của dư luận xã hội đối với tội phạm, từ đó các giá trị phê phán, giá trị tôn vinh, mức độ “có đi có lại” phải được chọn lựa, đề cao, gia giảm cho phù hợp thì hình phạt mới có sức thuyết phục, được xã hội đồng tình.

– Quyết định loại và mức hình phạt phải dựa trên phương thức thực hiện phù hợp:

+ Loại và mức hình phạt phải tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm theo quy tắc “có đi có lại”. Tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm càng cao thì loại và mức hình phạt phải càng nghiêm khắc và ngược lại; những tình tiết giảm nhẹ nếu có thì trách nhiệm hình sự phải giảm, tình tiết tăng nặng nếu có thì trách nhiệm hình sự phải tăng theo;

+ Trong vụ án hình sự, tự do thỏa thuận về loại và mức hình phạt không đặt ra vì đây là trách nhiệm mà nhà nước buộc chủ thể phạm tội phải chịu. Tuy nhiên, sự thỏa thuận vẫn được thực hiện “ẩn” trong một chừng mực nhất định thông thường, như trường hợp chủ thể phạm tội chủ động thừa nhận tội, tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả… để xin được giảm nhẹ hoặc xin chuyển sang loại hình phạt khác nhẹ hơn…

– Quyết định loại và mức hình phạt phải hướng tới các giá trị:

Đó là các giá trị phê phán và các giá trị nhân đạo trong việc xử lý tội phạm. Về giá trị phê phán, bản thân việc bảo đảm quy tắc “có đi có lại” đã chứa đựng giá trị phê phán, tuy nhiên giá trị phê phán còn có ý nghĩa khác là bảo đảm thêm tính răn đe, đấu tranh tội phạm và phòng ngừa chung trong xã hội, như phải nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái phạm nguy hiểm… Về giá trị nhân đạo, phải đảm bảo tính nhân đạo như khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, lập công chuộc tội, tự nguyện bồi thường, giảm nhẹ đối với phụ nữ có thai…; phải đảm bảo tính nhân văn về mục đích hình phạt không chỉ trừng trị mà còn nhằm cải tạo, giáo dục ý thức pháp luật…

– Đối với vấn đề vi phạm pháp luật tố tụng, vi phạm trật tự hiến pháp trong quá trình giải quyết các vụ án

Theo pháp luật hiện hành, những vấn đề vi phạm pháp luật tố tụng và vi phạm trật tự hiến pháp được chủ thể xét xử giải quyết trong quá trình giải quyết các vụ án. Việc bảo vệ công lý trong các vấn đề này cũng được thực hiện giống như những loại vụ án khác, gồm việc bảo đảm cơ sở nền tảng, phương thức thực hiện phù hợp và hướng tới các giá trị, trong đó nổi bật ở những yêu cầu sau đây:

Chủ thể xét xử phải đảm bảo thực hiện quy tắc “có đi có lại” khi xử lý hậu quả pháp lý đối với các vi phạm. Đó là tính chất và mức độ vi phạm ảnh hưởng đến quyển, lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong vụ án hay trật tự quản lý nhà nước càng lớn thì khả năng xử lý theo hướng bất lợi đối với những vi phạm đó sẽ càng cao. Những hậu quả xử lý đối với vi phạm tố tụng có thể là bản án, quyết định của Tòa án bị Tòa án cấp trên hủy, sửa; quyết định truy tố của Viện kiểm sát bị Tòa án tuyên trả để điều tra bổ sung; yêu cầu khởi kiện, khiếu kiện bị Tòa án đình chỉ hoặc bác…; đối với vi phạm trật tự hiến pháp sẽ bị Tòa án thực hiện kiến nghị sửa đổi, hủy bỏ và không được áp dụng để giải quyết vụ án. Việc chủ thể xét xử xử lý đúng đắn đối với những vi phạm này cũng là việc đảm bảo giá trị văn minh về nhà nước pháp quyền mà Việt Nam đang xây dựng.

Ngoài ra, khi xem xét các vấn đề trên, các hoạt động này phải đảm bảo cơ sở hình thức thể hiện của công lý, đó là phải phù hợp với quy phạm pháp luật, quy tắc chuẩn mực thống nhất với trật tự hiến pháp (nội dung này liên quan đến bảo vệ công lý trong việc định chuẩn pháp lý để giải quyết vụ án).

1.2. Bảo vệ trong việc thực thi các thủ tục tố tụng của vụ án

Bảo vệ công lý thủ tục vụ án là hoạt động làm sáng tỏ, gìn giữ những nội dung công lý trong việc áp dụng, thực thi những thủ tục tố tụng trong quá trình xét xử để giải quyết các vấn đề bản chất pháp lý của vụ án, bảo đảm cho việc bảo vệ công lý nội dung.

Bảo vệ công lý đòi hỏi chủ thể xét xử phải đảm bảo tính toàn diện, hệ thống về các vấn đề:

– Việc thực thi các thủ tục tố tụng của vụ án phải dựa trên những cơ sở nền tảng:

+ Sự việc, tình huống phát sinh phải được xác minh làm rõ là có thật, phù hợp với các sự kiện pháp lý tố tụng được pháp luật tố tụng quy định;

+ Các quyền, nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể tham gia tố tụng phải được tôn trọng, được thực hiện đầy đủ trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật. Các quyền bất khả xâm phạm về thần thể, quyền bào chữa, quyền bảo vệ, quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản… của các chủ thể phải được bảo đảm thực hiện;

+ Văn hóa pháp lý tiến bộ gắn với nhà nước pháp quyền, ở đó mọi chủ thể phải tuân theo pháp luật một cách nghiêm chỉnh.

–  Việc thực thi các thủ tục tố tụng của vụ án phải dựa trên phương thức thực hiện phù hợp:

+ Phải đảm bảo quy tắc “có đi có lại” trong quá trình áp dụng cho các bên thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng. Chẳng hạn trong vụ án dân sự, đương sự phải thực hiện nghĩa vụ nộp chi phí tố tụng, nộp đơn khởi kiện thì mới được Tòa án thụ lý giải quyết; phải thực hiện nghĩa vụ cung cấp đầy đủ chứng cứ thì mới được Tòa án chấp nhận yêu cầu…;

+ Tôn trọng sự thỏa thuận giữa các bên trong quá trình tố tụng trong một số trường hợp nhất định, như đương sự tự nguyện đề nghị không tham gia hòa giải, hoặc cùng thống nhất đề nghị Tòa án tạm ngừng phiên tòa để họ tự hòa giải….

– Việc thực thi các thủ tục tố’ tụng của vụ án phải hướng tới các giá trị:

Giá trị công bằng qua sự vô tư, khách quan của chủ thể xét xử khi tiến hành thủ tục tố tụng. Giá trị dân chủ, bình đẳng qua việc thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng. Giá trị kinh tế qua việc tích cực thực hiện các thủ tục rút gọn để tiết kiệm thời gian và nhân lực. Giá trị văn minh qua việc đảm bảo sự chặt chẽ, khoa học của các bước thủ tục…

–  Việc thực thi các thủ tục tố tụng của vụ án phải đảm bảo cơ sở hình thức thể hiện:

Phải phù hợp với quy phạm pháp luật, quy tắc chuẩn mực thống nhất với trật tự hiến pháp (nội dung này hên quan đến bảo vệ công lý trong việc định chuẩn pháp lý để giải quyết vụ án).

Trên cơ sở mối quan hệ chặt chẽ giữa hoạt động thực thi những thủ tục tố tụng và hoạt động giải quyết những vấn đề bản chất pháp lý của vụ án, bảo vệ công lý thủ tục và bảo vệ công lý nội dung của vụ án có mối quan hệ chặt chẽ như sau:

–  Bảo vệ công lý thủ tục được thực hiện từ giai đoạn chuẩn bị xét xử đến giai đoạn xét xử, từ sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và có thể đến thủ tục đặc biệt… cũng chỉ nhằm đạt được mục đích cuối cùng là bảo vệ công lý nội dung của vụ án;

–  Bảo vệ công lý thủ tục được thể hiện qua hoạt động tuân thủ nghiêm ngặt các trình tự, thủ tục trong thời hạn quy định, giúp cho việc bảo vệ công lý nội dung của vụ án được đúng đắn. Bảo vệ công lý thủ tục đòi hỏi phải thực hiện điều đúng để xử lý cái sai (hành vi vi phạm bị cáo buộc, tranh chấp), không thể chấp nhận vì mục đích trừng phạt mà xem nhẹ các quyền cơ bản, đồng tình với việc bức cung, nhục hình…;

–  Bảo vệ công lý thủ tục được thực hiện qua sự tuân thủ nghiêm ngặt các thủ tục tố tụng, nên sẽ đặt ra giới hạn cho nội dung xét xử, giới hạn phạm vi bảo vệ công lý nội dung của vụ án (để tránh chồng chéo thẩm quyền của các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp). Chẳng hạn như Tòa án không thể tự ý tuyên bố một văn bản quy phạm pháp luật là trái hiến pháp ngoài vụ việc tranh cãi pháp lý cụ thể…;

– Bảo vệ công lý thủ tục được định hướng bởi việc bảo vệ công lý nội dung của vụ án. Nếu các hoạt động nhận thức về bản chất pháp lý của vụ án đúng đắn thì các hoạt động tố tụng như: thu thập tài liệu, chứng cứ; thực hiện các biện pháp ngăn chặn, các biện pháp khẩn cấp tạm thời; các hoạt động bảo vệ chứng cứ, người làm chứng… của chủ thể xét xử sẽ được thực hiện chính xác, hiệu quả, tác động ngược lại giúp hoạt động xét xử thực hiện được nhiệm vụ bảo vệ công lý nội dung của vụ án.

Trong thực tiễn xét xử, việc phân biệt giữa công lý thủ tục và công lý nội dung chỉ mang tính tương đối. Chẳng hạn, đối với cấp xét xử sơ thẩm, việc thực thi thủ tục tố tụng sẽ liên quan đến việc bảo vệ công lý thủ tục của vụ án, nhưng đối với cấp xét xử phúc thẩm… thì việc thực thi thủ tục tố tụng của cấp xét xử sơ thẩm lại là vấn đề liên quan đến bản chất pháp lý của vụ án, thuộc về công lý nội dung của vụ án.

Ngoài ra, cũng cần làm rõ thêm một vấn đề quan trọng, giữa việc bảo vệ công lý thủ tục và bảo vệ công lý nội dung, hoặc giữa việc xem xét vi phạm thủ tục tố tụng với việc xem xét các nội dung khác trong những vấn đề về bản chất pháp lý của vụ án, cái nào quan trọng hơn. Theo truyền thống pháp luật phương Tây, nếu một người giết hại người khác, công lý nội dung đòi hỏi kẻ sát nhân phải bị trừng phạt theo đúng pháp luật, nhưng nếu giả sử kẻ sát nhân bị tra tấn một cách bất hợp pháp để phải thú tội thì công lý thủ tục đã không được thực thi. Trong trường hợp này, công lý thủ tục sẽ thắng công lý nội dung, bị cáo không thể bị kết tội[1]. Những nước theo truyền thống pháp luật xã hội chủ nghĩa như ở Việt Nam thì khác, có sự phần biệt giữa vi phạm

nghiêm trọng thủ tục tố tụng và vi phạm không nghiêm trọng thủ tục tố tụng, công lý nội dung có thể được hoãn lại cho đến khi công lý thủ tục được khôi phục, nghĩa là những vi phạm tố tụng được khắc phục, việc thực thi tố tụng được thực hiện lại, bổ sung cho đầy đủ (theo các quy định tại điểm o khoản 1 Điều 4, điểm d khoản 1 Điều 280, điểm c khoản 1 Điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015..

1.3. Bảo vệ công lý trong việc định chuẩn pháp lý để giải quyết vụ án

Bảo vệ công lý trong việc định chuẩn pháp lý để giải quyết vụ án là hoạt động lựa chọn, tìm ra những quy phạm pháp luật, quy tắc chuẩn mực chứa đựng nội dung công lý trong hệ thống pháp luật, để thực hiện bảo vệ công lý nội dung và công lý thủ tục của vụ án.

Hệ thống pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, được thể hiện ở những hình thức đa dạng như văn bản quy phạm pháp luật, tiền lệ pháp luật, án lệ, tín điều tôn giáo, tập quán… Mỗi nước có những hình thức pháp luật đặc trưng theo truyền thống hệ thống pháp luật của mình. Ở Việt Nam theo truyền thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, hình thức pháp luật chủ yếu được tập trung ở hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, nếu xảy ra trường hợp không có điều luật trực tiếp điều chỉnh thì áp dụng điều luật điều chỉnh tương tự, nguyên tắc pháp luật, án lệ… theo những nguyên tắc nhất định để giải quyết.

Dù thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào, những quy phạm pháp luật, quy tắc chuẩn mực có chứa đựng nội dung công lý phải được chủ thể xét xử xác định đầy đủ để làm căn cứ cho việc bảo vệ công lý nội dung và công lý thủ tục của vụ án. Nếu trong hệ thống pháp luật đã có đầy đủ các quy phạm pháp luật thì chủ thể xét xử chỉ cần lựa chọn, tập hợp lại để chỉ dẫn ra; nếu không có đầy đủ thì chủ thể xét xử sẽ phải đi tìm, phải sáng tạo trên cơ sở những quy phạm pháp luật tương tự, những quy phạm pháp luật nguyên tắc… trong hệ thống pháp luật để xác định những quy tắc chuẩn mực cần thiết làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Theo pháp luật Việt Nam hiện nay, những phán quyết của Tòa án có chứa đựng các quy tắc chuẩn mực đúng đắn có thể được chọn làm án lệ.

Để bảo vệ công lý trong hoạt động này, những quy phạm pháp luật và quy tắc chuẩn mực được xác định để giải quyết vụ án phải đáp ứng hệ thống những yêu cầu sau đầy:

– Các tình tiết được giả định trong các quy phạm pháp luật phải hoàn toàn phù hợp với các tình tiết sự thật khách quan của vụ án; nếu không có quy phạm pháp luật điều chỉnh thị những tình tiết được giả định trong quy phạm pháp luật tương tự, trong các quy phạm pháp luật nguyên tắc phải tương đối phù hợp với những tình tiết sự thật khách quan đó;

– Các quy phạm pháp luật, quy tắc chuẩn mực phải thể hiện sự tôn trọng phẩm giá và quyền bình đẳng của con người, cụ thể là những quyền sống, quyền tự do, quyền an toàn cá nhân, quyền bình đẳng… của con người;

– Các quy phạm pháp luật, quy tắc chuẩn mực phải thể hiện sự tôn trọng truyền thống văn hóa, tín ngưỡng của cộng đồng;

– Các quy phạm pháp luật, quy tắc chuẩn mực phải thể hiện quy tắc ‘có đi có lại” trong việc xác định quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý đối với đối tượng cần điều chỉnh;

–  Các quy phạm pháp luật, quy tắc chuẩn mực phải thể hiện sự tôn trọng các thỏa thuận mà các bên đã tự nguyện cam kết, phù hợp với những yêu cầu này trong trường hợp cho phép;

–  Các quy phạm pháp luật, quy tắc chuẩn mực phải đảm bảo các giá trị mà đời sống pháp lý tiến bộ luôn luôn cần như các giá trị nhân đạo, nhân văn, công bằng, văn minh…;

– Các quy phạm pháp luật, quy tắc chuẩn mực phải thống nhất với trật tự hiến pháp. Ở các nước theo truyền thống pháp luật Common law như Hoa Kỳ, Tòa án tối cao (Tối cao pháp viện) được quyền mở rộng trật tự hiến pháp qua việc giải thích, bổ sung Hiến pháp[2]. Ở Việt Nam, Tòa án chỉ được quyền hoạt động trong khuôn khổ trật tự hiến pháp, quyền bổ sung, giải thích Hiến pháp chỉ thuộc về Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

1.4.  Bảo vệ công lý trong việc thể hiện phán quyết giải quyết vụ án

Bảo vệ công lý trong việc thể hiện nội dung phán quyết là hoạt động làm sáng tỏ hình thức thể hiện của công lý trong việc ban hành bản án, quyết định của vụ án. Hoạt động này đòi hỏi nội dung của bản án, quyết định phải đảm bảo tính lô-gích hình thức, ở đó các lập luận, kết luận phải thể hiện tính nhất quán, không có sự mâu thuẫn; các nhận định phải xuất phát từ những tình tiết và căn cứ pháp lý xác đáng… Ngoài ra, hình thức của phán quyết phải đảm bảo đúng thể thức, thể hiện sự trang trọng, tôn nghiêm, để’ xứng đáng là một phán quyết nhân danh nhà nước và pháp luật, nhân danh công lý bảo vệ công lý.

2. Yêu cầu bảo vệ công bằng trong tố tụng hình sự

3.2. Xét xử công bằng

Trước khi có Hiến pháp năm 2013 và BLTTHS năm 2015, xét xử công bằng (faire hearing) chưa được bàn nhiều trong khoa học pháp lý nước ta, mặc dù hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động xét xử nói riêng ở nước ta trong nhiều năm qua vẫn nỗ lực tiếp cận theo hướng công bằng trong xét xử. Theo Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền 1948 thì mọi người đều được hưởng quyền bình đẳng, được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án độc lập và không thiên vị trong việc quyết định các quyền và nghĩa vụ cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ (Điều 10).

ICCPR nêu rõ hơn nội dung và những đòi hỏi của nguyên tắc “tất cả mọi người đều bình đẳng trước Tòa án và cơ quan tài phán. Bất kỳ người nào đều có quyền đòi hỏi việc xét xử công bằng và công khai do một tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội trong vụ án hình sự hoặc xác định quyền và nghĩa vụ của người đó trong tố tụng dân sự” (Điều 14 (1)).

Theo giải thích của HRC, sự công bằng của tố tụng đòi hỏi không có sự tồn tại của những ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp, áp lực hoặc đe dọa hoặc hướng dẫn từ bất cứ bên nào cho bất kỳ động cơ nào. HRC còn giải thích xét xử công bằng phải đảm bảo sự độc lập, vô tư của các loại tòa án (tòa án thường, tòa án đặc biệt, tòa án dân sự hay tòa án quân sự) có thẩm quyền được thành lập phù hợp với các quy định của pháp luật. Sự vô tư của tòa án thể hiện ở việc thẩm phán không được phép phán quyết mà bị ảnh hưởng bởi thiên vị và định kiến, cũng không hành xử theo những cách thức không phù hợp nhằm ủng hộ lợi ích cho một bên, gây thiệt hại cho bên khác. Tòa án cũng phải hiện diện trước sự giám sát hợp lý để được vô tư. Ngoài ra, đảm bảo xét xử công khai và xét xử kịp thời cũng là biểu hiện của xét xử công bằng.

Quan điểm lập pháp của Việt Nam có tiếp thu một cách hợp lý của nguyên tắc xét xử công bằng. Tuy nhiên, nội dung nguyên tắc chưa được giải thích cụ thể. Hiến pháp năm 2013 quy định ngắn gọn: “người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai” (khoản 2 Điều 31). Triển khai Hiến pháp năm 2013 và tiếp thu giá trị tiến bộ trong các văn kiện pháp lý quốc tế về nhân quyền, BLTTHS năm 2015 cũng ghi nhận nguyên tắc xét xử công bằng như một phần nội dung của Điều 25. Có lẽ nội dung của nguyên tắc đã được bảo đảm từ hệ thống các nguyên tắc khác nên nhà làm luật không giải thích rõ nội dung của xét xử công bằng.

Vấn đề còn lại là ở góc độ khoa học cần bàn thêm nội dung nguyên tắc xét xử công bằng cũng như mối quan hệ của nguyên tắc này với các nguyên tắc khác. Có quan điểm cho rằng xét xử công bằng có nhiều nội dung: yêu cầu tuân thủ pháp luật trong hoạt động xét xử; yêu cầu về sự khách quan vô tư của tòa án; yêu cầu về bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; yêu cầu bảo đảm tranh tụng; yêu cầu về suy đoán vô tội; quyền được tham gia phiên tòa và xét xử theo đúng thẩm quyền luật định và sớm nhất trong khoảng thời gian luật định…

Như vậy, xét xử công bằng là nguyên tắc mới trong BLTTHS năm 2015, thế nhưng nội dung của nó được thể hiện bởi nhiều nguyên tắc: bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự, bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật và trước tòa án, bảo đảm quyền bào chữa, bảo đảm tranh tụng trong xét xử, bảo đảm sự độc lập và vô tư của thẩm phán, hội thẩm…

3. Yêu cầu cơ bản của pháp chế xã hội chủ nghĩa

Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, sản xuất nhỏ là phổ biến, Đảng và Nhà nước rất coi trọng vai trò của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng của Đảng và Nhà nước là ổn định kỷ cương và lập lại trật tự được thể hiện trong các nguyên tức cơ bản sau đây:

– Quán triệt nguyên tắc thống nhất trong việc xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật

Dựa trên quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý toàn bộ xã hội một cách tập trung và thống nhất. Pháp chế bảo đảm tính thống nhất và tập trung đó, tính thống nhất của pháp chế phản ánh sự thống nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, đồng thơi phản ánh ý chí thống nhất của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Nguyên tắc pháp chế thống nhất đòi hỏi trước hết phải bảo đảm địa vị tối cao của luật, nghĩa là từ việc xây dựng pháp luật đến việc chấp hành pháp luật, luôn luôn phải xuất phát từ luật trên cơ sở luật để thi hành luật. Nói rõ hơn, pháp chế bắt buộc các cơ quan Nhà nước phải thực hiện chức năng của mình trong phạm vi thẩm quyền trên cơ sở pháp luật và phù hợp với pháp luật. Đối với cơ quan Nhà nước, cơ quan hành chính, cơ quan kinh tế hay cơ quan tư pháp đều phải như vậy. Các văn bản quy phạm do các cơ quan Nhà nước ban hành không được trái với luật. Ngay đối với cơ quan lập pháp là Quốc Hội khi ban hành luật cũng phải phù hợp với Hiến pháp, đạo luật cơ bản của Nhà nước (Trừ trường hợp khi Quốc hội thấy cần thiết phải ra luật sửa đổi hoặc bổ xung Hiến pháp).

– Tất cả các văn bản pháp luật của Nhà nước đều phải được quản triệt để tôn trọng và chấp hành một cách nghiêm chỉnh, không có một ngoại lệ nào đối với các quy phạm còn có hiệu lực, chưa được hủy bỏ hoặc sửa đổi

Một khi pháp luật đã được ban hành theo đúng thẩm quyền và đúng thể thức do Nhà nước quy định thì không có ai có thể nói rằng nên hay không nên tuân theo và chấp hành pháp luật đó. Pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi chấp hành pháp luật một cách triệt để, vô điều kiện. Thái độ tự do , tùy tiện trong việc chấp hành pháp luật là trái với nguyên tắc pháp chế và không phù hợp với bản thân cơ sở kinh tế của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật là chấp hành đúng lời văn và tinh thần của các quy phạm pháp luật. Coi nhẹ bất kỳ mặt nào cũng dễ dẫn tới sai lầm trong thực tiễn (dù tự giác hay không tự giác). Nhưng nghiêm chinh chấp hành pháp luật không có nghĩa là chấp hành một cách hình thứ, pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi một mặt phải chấp hành triệt để các quy phạm pháp luật. Mặt khác vận dụng các quy phạm pháp luật ấy sao cho phù hợp với nhiệm vụ kinh tế và chính trị trong từng giai đoạn phát triển tương ứng của xã hội chủ nghĩa.

– Mọi người phải bình đẳng trước pháp luật, pháp luật bình đẳng trước mọi người

Nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa không thừa nhận bất cứ một đặc quyền nào trong lĩnh vực thực hiện pháp luật. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa chỉ có một pháp luật và mội kỷ luật của Nhà nước cho tất cả mọi người. Đảng viên và những người ngoài Đảng, người lãnh đạo và người bị lãnh đạo không phân biệt dân tộc hay tôn giáo tất cả đều có nghĩa vụ tuần theo pháp luật và có quyền đòi hỏi người khác, cơ quan khác phải tôn trọng và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của minh. Pháp luật đã ban hành mọi người đều phải thi hành như nhau. Ai vi phạm đều bị xử bình đẳng.

– Bảo vệ các quyền và tự do của công dân đã được pháp luật quy định

Trong xã hội chủ nghĩa Việt Nam công dân có những quyền dân chủ đã được Hiến pháp quy định. Cùng với việc chăm lo đời sống nhân dân, các cơ quan Nhà nước phải được tôn trọng và bảo đảm những quyền công dân mà Hiến pháp đã quy định đảm bảo thực tế của các quyền tự do của công dân, ngăn chặn kịp thời đồi với mọi sự vi phạm các quyền Nó là một trong những yêu cầu quan trọng của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các công dân khi sử dụng các quyền tự do, khi được pháp luật trao cho, không được gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước và xã hội, cũng như lợi ích của các công dân khác. Nhà nước phải thường xuyên quan tâm tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện các quyền và tự do của công dân một cách có hiệu quả.

Kết luận, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc bảo đảm tính nghiêm minh triệt để của Luật Hình sự Việt Nam, bảo vệ hữu hiệu các lợi ích của Nhà nước, của xã hội và lợi ích hợp pháp của công dân.

» Luật sư bào chữa vụ án hình sự