Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng

Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng theo Bộ luật hình sự. Pháp luật Việt Nam quy định chế độ hôn nhân là Một vợ, một chồng, luật nghiêm cấm hành vi đa thê nhiều vợ, nhiều chồng và nghiêm cấm hành vi chung sống như vợ chồng. Trong cuộc sống nhiều người không tìm hiểu hoặc có lối sống không chuẩn mực đạo đức dẫn đến phạm tội.

Tư vấn tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng

1. Quy định tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng tại Điều 182 Bộ luật hình sự 2015 như sau:

“1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.”

2. Các yếu tố cấu thành tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng

– Mặt khách quan

Mặt khách quan của tội này có các dấu hiệu sau đây:

+ Về hành vi, có một trong các hành vi sau:
Có hành vi kết hôn trái pháp luật với người khác trong khi người phạm tội đang có vợ hoặc có chồng một cách hợp pháp hoặc được xác định là hôn nhân thực tế và quan hệ hôn nhân đó còn đang tồn tại hoặc tuy chưa có vợ, có chồng mà kết hôn trái pháp luật với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ hợp pháp.

Việc kết hôn trái pháp luật thể hiện qua việc dùng thủ đoạn khai báo gian dối và chưa có vợ hoặc chồng, hoặc mua chuộc cán bộ có thẩm quyển để tiến hành việc kết hôn nhằm xác lập quan hệ hôn nhân mới giữa nam, nữ trong khi chính họ đang có vợ hoặc chồng.

Hành vi sống như vợ chồng với người khác: nếu không thuộc trường hợp kết hôn nêu ở trên thì hành vi chung sống như vợ chồng với người khác cũng cấu thành tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng. Hành vi nêu trên được thể hiện ở chỗ đôi nam, nữ mà một hoặc cả hai bên đang có vợ hoặc chồng nhưng lại chung sống với nhau không đăng ký kết hôn và coi nhau như vợ chồng một cách công khai (như ở chung một nhà, công khai mối quan hệ vợ chồng với hàng xóm, cha mẹ, bạn bè, có tài sản chung, con chung).

Tuy nhiên, thực tế việc xác định dấu hiệu nàv không dễ dàng vì phần đông việc chung sống ở dạng này thường diễn ra một cách lén lút, bí mật, trừ một số trường hợp khá đặc biệt có sự đồng ý của vợ hoặc chồng cho lấy thêm vợ hoặc chồng khác.

Lưu ý:
+ Hôn nhân thực tế được hiểu là trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký trước chính quyền, không vi phạm điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình và quan hệ này phải xác lập trước khi Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực.

+ Trường hợp người có chồng, có vợ hợp pháp nhưng đang ly thân mà kết hôn hoặc chung sống với người khác như vợ chồng thì vẫn bị coi là phạm vào tội này.

+ Nếu hậu quả nghiêm trọng xảy ra mà cấu thành một tội phạm khác thì người phạm tội còn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội độc lập đó.

Ví dụ: A đi công tác xa đã chung sống với chị B như vợ chồng, nên đã tìm cách giết vợ để được chung sống với B một cách trọn vẹn. Hành vi của A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội là tội vi phạm chế độ một vợ một chồng và tội giết người.

+ Nếu người đang có vợ có chồng hợp pháp mà sống như vợ như chồng với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giao cấu với trẻ em.

+ Nếu sống chung như vợ chồng với trẻ em chưa đủ 13 tuổi thì họ phạm vào tội hiếp dâm trẻ em.

+ Dấu hiệu khác: Hành vi nói trên phải gây hậu quả nghiêm trọng (như làm cho gia đình họ đổ vỡ phải ly hôn…) hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.

– Khách thể
Hành vi phạm tội nêu trên xâm phạm đến chế độ hôn nhân một vợ, một chồng, một trong những nguyên tắc cơ bản quy định Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

– Mặt chủ quan
Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý trực tiếp.

– Chủ thể
Chủ thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự, phải dù tuổi kết hôn (nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên) và phải là đang có vợ hoặc có chồng hợp pháp hoặc là người chưa có vợ, chưa có chồng nhưng biết rõ người khác đang có chồng có vợ, mà vẫn kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đó.

Đốì với người còn lại mà chưa có vợ hoặc có chồng khi biết rõ bên kia đã có chồng hoặc có vợ mà vẫn đồng ý kết hôn với họ thì cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này với vai trò đồng phạm.

Thực tế có trường hợp đồng tính luyến ái chung sống với nhau như vợ chồng theo chúng tôi thì không thể coi là hành vi vi phạm chế độ một vợ một chồng.

– Về hình phạt

Mức hình phạt của tội phạm này được chia thành hai khung cụ thể như sau:

+ Khung một (khoản 1)
Có mức hình phạt là phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. Được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có đủ các dấu hiệu cấu thành cơ bản nêu ở mặt khách quan.
+ Khung hai (khoản 2)
Có mức hình phạt là phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm nếu vi phạm một trong các điều sau:
Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.

3. Thế nào là chung sống như vợ chồng?

Theo khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng.

Hiện nay, chưa có văn bản nào hướng dẫn cho hành vi chung sống như vợ chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Quý khách hàng có thể tham khảo hướng dẫn hành vi chung sống như vợ chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình 2000 tại Nghị quyết 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP, cụ thể:

Được coi nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng, nếu họ có đủ điều kiện để kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2000 và thuộc một trong các trường hợp sau đây:

– Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau;

– Việc họ về chung sống với nhau được gia đình (một bên hoặc cả hai bên) chấp nhận;

– Việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến;

– Họ thực sự có chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.

Thời điểm nam và nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng là ngày họ tổ chức lễ cưới hoặc ngày họ về chung sống với nhau được gia đình (một hoặc cả hai bên) chấp nhận hoặc ngày họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến hoặc ngày họ thực sự bắt đầu chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.

» Tội hiếp dâm theo luật hình sự

» Tội loạn luân

Tư vấn tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng: