Bình luận tội nhận hối lộ

Tội nhận hối lộ được cấu thành tại Điều 354 Bộ luật Hình sự năm 2015 do lỗi của người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người. 

Bình luận tội nhận hối lộ

1. Khái niệm tội nhận hối lộ tại khoản 1 Điều 354 BLHS năm 2015

Nhận hối lộ là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác tiền. 

Tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1. 

Chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc lợi ích phi vật chất, để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.

Do người từ đủ 16 tuổi trở lên và không trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.

2. Dấu hiệu pháp lý tội nhận hối lộ

Khách thể

Khách thể của Tội nhận hối lộ là những quan hệ xã hội liên quan đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức trong Nhà nước và của cả các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước; làm cho cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp này bị suy yếu, mất uy tín; làm cho nhân dân mất niềm tin vào Đảng và Nhà nước.

Mặt khách quan

Người nhận hối lộ thuộc 01 trong 04 trường hợp sau đây mới phạm tội nhận hối lộ:

Một là, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên, để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.

Hai là, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.

Ba là, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương XXIII, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.

Bốn là, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác lợi ích phi vật chất, để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.

Nếu người lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá dưới 2.000.000 đồng.

Tuy trước đó họ đã bị xử lý kỷ luật về hành vi nhận hối lộ bằng một trong những hình thức kỷ luật theo quy định của Nhà nước hoặc theo quy định trong Điều lệ của cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức nhưng đã hết thời hạn được xoá kỷ luật (4) thì cũng không phạm tội nhận hối lộ.

Lợi ích phi vật chất quy định trong tội này có thể là lợi ích về tinh thần, về tình cảm, tình dục…

Chủ thể

Chủ thể của Tội nhận hối lộ là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức nhà nước và doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước, từ đủ 16 tuổi trở lên và không trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự.

Chủ thể của Tội nhận hối lộ cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: Độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các điều 12, 21 BLHS năm 2015.

Mặt chủ quan

Người phạm tội nhận hối lộ thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý trực tiếp, tức là, “họ nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.

Không có trường hợp nhận hối lộ nào được thực hiện do cố ý gián tiếp, vì người phạm tội này bao giờ cũng mong muốn thực hiện được hành vi phạm tội.

3. Đường lối xử lý Tội nhận hối lộ theo cấu thành tội phạm cơ bản 

Khoản 1 Điều 354 BLHS năm 2015 là cấu thành cơ bản của Tội nhận hối lộ, có khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội nhận hối lộ theo khoản 1 Điều 354 BLHS năm 2015, cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VIII BLHS năm 2015 (từ Điều 50 đến Điều 59).

Nếu người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015, không có tình tiết tăng nặng, thì có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng (dưới 02 năm tù) hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn là hình phạt cải tạo không giam giữ. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 65 BLHS năm 2015 thì người phạm tội nhận hối lộ được hưởng án treo.

Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, không có tình tiết giảm nhẹ thì có thể bị phạt đến 07 năm tù.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì: Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 354 BLHS năm 2015 bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 1 của Điều luật này;

Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 BLHS năm 2015 sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ hơn; người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng hơn;

Người phạm tội trả lại tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác mà họ đã nhận hoặc bồi thường được càng nhiều thiệt hại mà họ đã gây ra thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội không trả lại tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác mà họ đã nhận

Hoặc không bồi thường thiệt hại mà họ đã gây ra hoặc chỉ trả lại không đáng kể tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác mà họ đã nhận hoặc chỉ bồi thường không đáng kể thiệt hại mà họ đã gây ra. 

Những quy định có lợi cho người phạm tội

– Tăng mức định lượng trong cấu thành tội phạm cơ bản từ 10.000.000 đồng lên 100.000.000 đồng

Quy định mới này có lợi cho người phạm tội. Bởi lẽ, theo quy định của BLHS năm 1999 thì người phạm tội nhận hối lộ “từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng” đã bị xét xử theo cấu thành tội phạm tăng nặng thứ hai và bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

Tuy nhiên, với quy định mới này, người phạm tội nhận hối lộ “từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng” mới bị xét xử theo cấu thành tội phạm tăng nặng thứ hai của Tội nhận hối lộ.

Tăng mức định lượng trong cấu thành tội phạm cơ bản của Tội nhận hối lộ từ mười triệu đồng lên 100.000.000 đồng vừa để phân hóa rõ hơn, hợp lý hơn hành vi vi phạm kỷ luật với hành vi phạm tội và vừa phù hợp hơn với tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

– Bỏ tình tiết “Gây hậu quả nghiêm trọng” trong cấu thành tội phạm cơ bản

Theo quy định của BLHS năm 1999 thì người phạm tội nhận hối lộ dưới hai triệu đồng nhưng “Gây hậu quả nghiêm trọng” thì vẫn phạm tội này và bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

Tuy nhiên, với quy định mới này, người phạm tội nhận hối lộ dưới hai triệu đồng dù “Gây hậu quả nghiêm trọng” cũng không phạm tội này (nếu họ chưa bị xử lý kỷ luật về hành vi này, chưa bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này hoặc tuy đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này nhưng đã được xóa án tích).

Việc BLHS năm 2015 bỏ quy định này là phù hợp với bản chất của Tội nhận hối lộ, vì hậu quả nghiêm trọng của tội này chính là sự biến dạng xử xự của người phạm tội

Làm mất uy tín của Đảng và Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, thông qua hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận.

Hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.

Nếu hành vi nhận hối lộ gây ra hậu quả khác thì người thực hiện hành vi phạm tội sẽ bị xử phạt theo cấu thành tăng nặng của tội phạm này.

– Thay đổi cách tính và mức phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ sung “từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ” thành “từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng”

Theo quy định của BLHS năm 1999 thì mức tối đa của hình phạt tiền chỉ phụ thuộc vào “giá trị của hối lộ”, không giới hạn mức tối đa của hình phạt tiền;

Nhưng BLHS năm 2015 đã giới hạn mức tối đa của hình phạt tiền chỉ đến “100.000.000 đồng”.

Bộ luật này còn quy định: “phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng” sẽ tạo thuận lợi hơn, bảo đảm thống nhất hơn cho Tòa án khi quyết định hình phạt và phù hợp hơn với trường hợp nhận hối lộ là “Lợi ích phi vật chất”.

Bởi lẽ, nếu phạt tiền theo cách quy định của BLHS năm 1999 “từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ” thì Tòa án buộc phải chứng minh được giá trị của hối lộ, đây là việc làm không đơn giản và không thực hiện được nếu của hối lộ lại là “Lợi ích phi vật chất”.

Mặt khác, giả sử Tòa án đã xác định được “giá trị của hối lộ” thì khi nào phạt “một lần”, khi nào phạt “năm lần” giá trị của hối lộ?

Đây cũng là vấn đề khó khăn với Tòa án và có thể dẫn đến tùy tiện, không thống nhất, không công bằng, tạo hoài nghi trong nhân dân.

Những quy định mới này có lợi cho người phạm tội, vì vậy, theo Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017

Nghị quyết số 41/2017 của Quốc hội về việc thi hành BLHS số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 thì được áp dụng đối với cả những hành vi nhận hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích.

Những quy định không có lợi cho người phạm tội

– Bổ sung tình tiết định tội trong cấu thành tội phạm cơ bản từ chỉ nhận hối lộ “cho chính bản thân mình” mới phạm tội nhận hối lộ; nay nhận hối lộ “cho chính bản thân mình hoặc cho người hoặc tổ chức khác” cũng phạm tội nhận hối lộ

Sửa đổi, bổ sung này là cần thiết và phù hợp với Công ước về chống tham nhũng và thực tiễn đấu tranh phòng, chống Tội nhận hối lộ; tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm; khắc phục tình trạng lách luật để trốn tội.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 15 Công ước về chống tham nhũng, yếu tố khách quan bắt buộc trong cấu thành Tội nhận hối lộ là hành vi đòi hỏi hoặc chấp nhận của hối lộ và sự liên hệ giữa những hành vi này với hành xử của công chức khi thi hành công vụ.

 Việc đòi hỏi hoặc chấp nhận có thể do công chức trực tiếp thực hiện hoặc qua trung gian.

Lợi ích không chính đáng có thể dành cho chính bản thân công chức hoặc cho người khác, ví dụ, họ hàng người thân của công chức đó, hoặc có thể dành cho một thực thể khác.

Về chủ quan, yếu tố bắt buộc là việc cố ý đòi hỏi hoặc chấp nhận lợi ích không chính đáng với mục đích thay đổi hành xử của một người trong quá trình người đó thực hiện trách nhiệm chính thức. 

» Luật sư bào chữa Tội nhận hối lộ

» Tư vấn các tội phạm về chức vụ