Bài bào chữa vụ án hành chính hủy quyết định buộc thôi việc

Bản luận cứ bảo vệ cho người khởi kiện về hủy quyết định buộc thôi việc của UBND.

Kính thưa Hội đồng xét xử!

Tôi là Luật sư HMP thuộc Đoàn Luật Sư số 1 Tỉnh NA. Tôi tham gia phiên toà hôm nay với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện là ông T trong vụ án khiếu kiện quyết định buộc thôi việc của UBND huyện TN được Toà Hành Chính – Toà án nhân dân huyện TN đưa ra xét xử ngày hôm nay.

Kính thưa Hội đồng xét xử!

Ông T là một Đảng viên và là cán Bộ phòng Công Nghiệp Huyện TN từ năm 1991 đến nay. Trong thời gian công tác tại Phòng Công nghiệp huyện TN, Ông T được Đảng bộ và Chính quyền tin tưởng giao nhiệm vụ và thực hiện một số công việc cụ thể như sau:

Từ năm 1994 – 1996, Ông T được cơ quan cho dự lớp Trung cấp kỹ thuật xây dựng tại chức ở Tỉnh Vĩnh Long và học trung cấp Chính trị tại chức trường chính trị của Huyện. Cũng trong thời gian này, UBND Huyện TN quyết định cử Ông T làm trưởng ban giám sát công trình chợ Trung. Trong thời gian này, Ông T đã có những đơn thư kiện vì các lí sau:

  1. Ông T lợi dụng vai trò của mình để gợi ý chủ thầu là Ông Lưu xin 500.000 đ mua bộ vẽ và 200.000 đ bồi dưỡng đi học.
  2. Vẽ hiện trạng nhà Bà Lý Thị Bảy sai hiện trạng nhà: Phần nhà phụ là nhà lá lại vẽ là nhà tường lợp Tol. Nhận hoàn tất hồ sơ, thủ tục và vẽ với giá 300.000đ. Nhưng đã không thực hiện theo lời hứa
  3. Môi giới bán đất cho Công ty Aromax với Ông Đinh để hưởng hoa hồng là 11.5 lượng vàng.

+ Vì các lí do trên ngày 15/10/1997, UBND Huyện TN ra quyết định số 08/QĐ.UBH.97 buộc thôi việc đối với Ông T.

– Ngày 9/5/2001, UBND Huyện TN ra quyết định số 390/ QĐ.CT.NC về việc: Thu hồi quyết định số 08/QĐ-UBH.97 và quyết định số 864/QĐ-CT.UB do có sự sai phạm tại quyết định số 08/QĐ.UBH.97

– Ngày 24/ 5/2001, Phòng Công Thương Môi Trường thuộc UBND Huyện TN ra quyết định số 02/QĐ.PCTMT về việc thành lập hội đồng kỷ luật và tiến hành họp vào ngày 28/5/2001 với kết quả bỏ phiếu 3/3 số phiếu thống nhất hình thức kỷ luật Ông T là buộc thôi việc.

– Ngày 7/ 6/ 2001, UBND Huyện TN ra quyết định số 500/QĐ-UB về việc giữ nguyên hình thức kỷ luật buộc thôi việc đối với Ông. T do Ông. Võ Kim Đạn Phó chủ tịch ký.

Ông. T đã có đơn khiếu nại gửi UBND Huyện TN về quyết định số 500/QĐ.CT.UB. Nhưng đã bị UBND Huyện TN bác đơn khiếu nại. Chính vì vậy mà ngày 10/ 9/ 2001, Ông T đã làm đơn khởi kiện gửi Toà Hành chính – Toà án nhân dân huyện TN khiếu kiện về quyết định số 500/QĐ.CT.UB. của UBND Huyện TN buộc ông T thôi việc.

Thưa Hội đồng xét xử!

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và tại phiên toà hôm nay, sau phần xét hỏi và trả lời của các bên trước Hội đồng xét xử, Tôi xin được trình bày quan điểm của mình về vụ án như sau:

Trước hết, Tôi xin khẳng định quyết định số 500/QĐ.CT.UB của Chủ Tịch UBND Huyện TN buộc Ông T thôi việc là hoàn toàn sai trái cả về hình thức và nội dung và trình tự thủ tục. Tôi xin được đưa ra những căn cứ và lập luận như sau:

Thứ Nhất, Quyết định số 500/QĐ-UB ngày 7/6/2001 của chủ tịch UBND Huyện TN buộc thôi việc đối với Ông T là sai về trình tự, thủ tục:

Vi phạm về thời hiệu: thời hiệu xử lý kỷ luật tối đa là 6 tháng . Như vậy nếu lấy thời gian phát hiện vi phạm là ngày 15/10/1997 – ngày ra quyết định số 08/QĐ.UBH.97 .Vậy mà mãi đến tận ngày 7/6/2001 UBND Huyện TN mới ra quyết định số 500/QĐ-UB kỷ luật buộc thôi việc đối với Ông. T là vi phạm về thời hiệu được qui định tại Đ5 – K3 Nghị định 97/1998/NĐ – CP.

– Vi phạm Đ19- K4  về quyền của cá nhân được phát biểu ý kiến về hình thức kỷ luật của mình. Nhưng tại Biên bản họp Hội đồng kỷ luật, Ông T đã không được thực hiện quyền này.

– Vi phạm điều 20 Nghị định 97/1998/NĐ – CP về thời hạn ra quyết định là 7 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ tài liệu của Hội đồng kỷ luật thì người đứng đầu cơ quan tổ chức phải ra quyết định kỷ luật. Nhưng Hội đồng kỷ luật báo cáo ngày 30/5/ 2001 nhưng đến tận ngày 7/ 6/ 2001 chủ tịch UBND Huyện TN mới ra quyết định ( BL số 13 ).

Thứ hai, Quyết định số 500/QĐ-UB ngày 7/6/2001 của chủ tịch UBND Huyện TN buộc thôi việc đối với Ông T là sai về hình thức:

Các căn cứ được đưa ra để quyết định là không đúng khi dựa vào quyết định số 390/QĐ.CT-UB ngày 9/ 5/ 2001. Đây là quyết định về việc thu hồi quyết định sai trái số 08/QĐ-UBH.97 vậy lại dùng làm căn cứ để ra quyết định buộc thôi viêc là không có cơ sở. Và đặc biệt còn xét trên biên bản cuộc họp đồng xét kỷ luật ngày 28/ 5/ 2001 và báo cáo kết quả họp của Hội đồng kỷ luật của phòng Công Thương Môi Trường ngày 30/5/2001 là hoàn toàn sai trái vì lí do sau:

Việc thành lập Hội đồng kỷ luật là sai với qui định tại điều 14 nghị định 97/1988/QĐ- CP và Điều 40 Pháp lệnh về cán bộ Công chức. Tại các điều này qui định: Hội đồng kỷ luật phải do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quyết định hình thức kỷ luật thành lập Hội đồng kỷ luật. Như vậy việc thành lập phải do Chủ tịch UBND Huyện TN thành lập chứ không phải do Phòng Công Thương Môi Trường thành lập (BL số 67)

Do vậy, việc thành lập Hội đồng kỷ luật trên là vi phạm và không được pháp luật công nhận do đó biên bản họp Hội đồng kỷ luật cũng không có giá trị pháp lý vì vậy không thể dùng làm căn cứ để ra quyết định buộc thôi việc đối với Ông T.

Thứ ba, Quyết định số 500/QĐ-UB ngày 7/6/2001 của chủ tịch UBND Huyện TN buộc thôi việc đối với Ông T là sai về nội dung:

Vì trong quyết định không đưa ra bất cứ một lí do nào để ra quyết định buộc thôi việc đối với Ông T mà chỉ nói giữ nguyên hình thức kỷ luật buộc thôi việc. Điều này được hiểu, căn cứ vẫn được giữ nguyên theo như quyết định số 08/QĐ-UBH.97. Như vậy là vi phạm qui định của pháp luật vì các căn cứ đưa ra không theo đúng tinh thần của K7 – Điều 12 Nghị định 97/1988/NĐ – CP và Thông tư số 05/1999/TT – TCCP.

Lí do thứ nhất: Ông T nhận 700.000 đ của Ông Lựu chủ Thầu là do Ông. Lựu tự nguyện giúp đỡ, chứ Ông T không hề sách nhiễu  điều này được chứng minh tại bản tường trình của Ông.Lựu gửi Phòng Công nghiệp và UBND huyện TN (BL số 32,33). Ông Lưu đã khẳng định việc Ông giúp đỡ Ông Lựu là hoàn toàn tự nguyện, và Ông còn khẳng định đơn thư kiện Ông T là mạo danh ông và đề nghị cấp trên tìm hiểu xử lý kẻ mạo danh này. Vậy mà, UBND Huyện TN lại dùng việc này để buộc lỗi Ông T đã nhận hối lộ.

Lí do thứ hai: Là cố ý làm trái trong việc vẽ hiện trạng nhà. Việc này, Ông T đã nhận khuyết điểm trước chi bộ đảng là do sơ xuất đã vẽ sai hiện trạng nhà và sửa sai là hoàn trả số tiền 300.000 đồng cho Bà Bảy. Như vậy hành vi này, Ông T đã bị khiển trách trước chi bộ đảng rồi và nó cũng không thuộc trường hợp nào được qui định tại K7 – Điều 12 Nghị định 97/NĐ – CP qui định về những trường hợp bị buộc thôi việc. (BL 29)

Lí do thứ ba:Môi giới mua bán đất với Công ty AROMAS, kê khai không đúng giá trị đất, gây thất thu thuế cho nhà nước để lấy chênh lệch cho cá nhân.

Việc Ông T môi giới mua bán đất giữa Công ty AROMAS và Ông Định là sự thoả thuận cá nhân, đây là hợp đồng dân sự. Các bên tự thoả thuận và tuân thủ đúng qui định của pháp luật (BL số 48,49). Hơn nữa, việc làm của Ông T cũng không vi phạm gì về những việc công chức không được làm tại Điều 17 Pháp Lệnh cán bộ, công chức.

Như vậy các căn cứ được viện dẫn và đưa ra để buộc thôi việc đối với Ông. Thi là không có cơ sở.

Từ những chứng cứ và lập luận trên đây: Tôi khẳng định quyết định số 500/QĐ – UB ngày 7/ 6/ 2001 là vi phạm nghiêm trọng pháp luật cả về hình thức, nội dung và trình tự thủ tục ban hành.

Ngoài ra, Căn cứ tại điều 3 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính . Ông T có quyền yêu cầu đồi bồi thường thiệt hại cả về vật chất lẫn tinh thần di quyết định sai trái số 500/QĐ – UB ngày 7/ 6/ 2001 gây ra cụ thể như sau:

– Đòi bồi thường số tiền lương từ ngày 15/10/1997 đến ngày 7/6/2001. ( Tương đương với 43 tháng 19 ngày công )Thời gian này Ông T không bị quyết định buộc thôi việc do Quyết định số 08/QĐ-UBH.97 sai đã được chủ tịch UBND Huyện TN ra quyết định số 390/QĐ-CT.NC ngày 9/5/2001 thu hồi. Và thời hiệu xử lý kỷ luật cũng đã hết ( K3 điều 5 nghị định 97/1998/CP ) Vì vậy căn cứ vào điều 45 pháp lệnh cán bộ công chức và K2 Điều 7, Điều 10 nghị định 97/1988/CP về việc bồi thường thiệt hại cho công chức. Tôi đề nghị UBND Huyện TN phải bồi thường toàn bộ số tiền lương cho Ông T tương ứng với 43 tháng 19 ngày công mà Ông T được hưởng theo đúng qui định của pháp luật. Số tiền cụ thể như sau:

Lương của Ông T thời điểm trước khi có quyết định số 08/QĐ-UBH.97 là: 1.200.000 đ .

Tiền lương 43 tháng = 1.200.000 đ x 43 tháng = 51.600.000 đ.

Tiền lương 19 ngày = (1.200.000 đ/ 26 ngày x 19 ngày = 877.000 đ

Tổng cộng: 52.477.000 đ (Năm mươi hai triệu bốn trăm  bẩy bẩy  đồng chẵn)

Kính thưa Hội đồng xét xử.

Qua việc thẩm vấn công khai tại phiên toà hôm nay cùng với những phân tích và căn cứ nêu trên, Tôi kính mong Hội đồng xét xử quyết định:

Tuyên huỷ quyết định số 500/QĐ – UB ngày 7/6/2001 của Chủ tịch UBND Huyện TN buộc thôi việc đối với Ông T. Và nhận Ông T trở lại làm việc.

Bồi thường số tiền lương kể từ ngày 15/10/1997 đến ngày 7/6/2001 là 43 thàng 22 ngày công với số tiền tính được cụ thể là: 52.477.000 đ (Năm mươi hai triệu bốn trăm  bẩy bẩy  đồng chẵn).

theo Luật sư Hoàng Minh Phương

» Luật sư tham gia tố tụng vụ án hành chính