Nghị án được quy định tại Điều 360 BLTTHS. Nghị án là một trong những quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa, được thực hiện tiếp theo sau thủ tục tranh tụng. Nghị án là một hoạt động tố tụng mà chỉ có Hội đồng xét xử mới là chủ thể duy nhất thực hiện, chỉ Thẩm phán, Hội thẩm là thành viên của Hội đồng xét xử mới có quyền nghị án. Việc nghị án phải được tiến hành tại phòng nghị án.
Quy định về nghị án tại Điều 326 của Bộ luật tố tụng hình sự
1. Nội dung của Điều 326 về nghị án
“1. Chỉ Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị án. Việc nghị án phải được tiến hành tại phòng nghị án.
Chủ tọa phiên tòa chủ trì việc nghị án có trách nhiệm đưa ra từng vấn đề của vụ án phải được giải quyết để Hội đồng xét xử thảo luận, quyết định. Chủ tọa phiên tòa tự mình hoặc phân công một thành viên Hội đồng xét xử ghi biên bản nghị án. Các thành viên Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề. Hội thẩm biểu quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Nếu không có ý kiến nào chiếm đa số thì phải thảo luận và biểu quyết lại từng ý kiến của các thành viên Hội đồng xét xử đã đưa ra để xác định ý kiến chiếm đa số. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án.
2. Việc nghị án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ của vụ án, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác.
3. Các vấn đề của vụ án phải được giải quyết khi nghị án gồm:
a) Vụ án có thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc thuộc trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay không;
b) Tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do luật sư, bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp;
c) Có hay không có căn cứ kết tội bị cáo. Trường hợp đủ căn cứ kết tội thì phải xác định rõ điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự được áp dụng;
d) Hình phạt, biện pháp tư pháp áp dụng đối với bị cáo; trách nhiệm bồi thường thiệt hại; vấn đề dân sự trong vụ án hình sự;
đ) Bị cáo có thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hay không;
e) Án phí hình sự, án phí dân sự; xử lý vật chứng; tài sản bị kê biên, tài khoản bị phong tỏa;
g) Tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử;
h) Kiến nghị phòng ngừa tội phạm, khắc phục vi phạm.
4. Trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử vẫn giải quyết những vấn đề của vụ án theo trình tự quy định tại khoản 1 Điều này. Nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tội thì Hội đồng xét xử tuyên bị cáo không có tội; nếu thấy việc rút quyết định truy tố không có căn cứ thì quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.
5. Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp thì Hội đồng xét xử có thể quyết định kéo dài thời gian nghị án nhưng không quá 07 ngày kể từ ngày kết thúc tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử phải thông báo cho những người có mặt tại phiên tòa và người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa biết giờ, ngày, tháng, năm và địa điểm tuyên án.
6. Kết thúc việc nghị án, Hội đồng xét xử phải quyết định một trong các vấn đề:
a) Ra bản án và tuyên án;
b) Trở lại việc xét hỏi và tranh luận nếu có tình tiết vụ án chưa được xét hỏi, chưa được làm sáng tỏ;
c) Trả hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ;
d) Tạm đình chỉ vụ án.
Hội đồng xét xử phải thông báo cho những người có mặt tại phiên tòa và người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa về các quyết định tại điểm c và điểm d khoản này.
7. Trường hợp phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm thì Hội đồng xét xử quyết định việc khởi tố vụ án theo quy định tại Điều 18 và Điều 153 của Bộ luật này.”
Bàn về nghị án
Khi Hội đồng xét xử nghị án thì không ai được quyền tham dự, kể cả Chánh án Tòa án và cũng không ai được quyền can thiệp vào việc nghị án. Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi nghị án để đưa ra các phán quyết về vụ án. Chủ tọa phiên tòa chủ trì việc nghị án, có trách nhiệm đưa từng vấn đề của vụ án phải giải quyết để Hội đồng xét xử thảo luận, quyết định. Chủ tọa phiên tòa có thể phân công một thành viên của Hội đồng xét xử hoặc tự mình ghi biên bản nghị án.
Tất cả các vấn đề phải giải quyết đều phải thảo luận và biểu quyết theo đa số. Khi thảo luận và biểu quyết, Hội thẩm phát biểu và biểu quyết trước, Thẩm phán là thành viên Hội đồng xét xử biểu quyết sau và Thẩm phán là chủ tọa phiên tòa phát biểu, biểu quyết cuối cùng (đối với trường hợp Hội đồng xét xử gồm 02 Thẩm phán và 03 Hội thẩm). Nếu Hội đồng xét xử gồm 01 Thẩm phán và 02 Hội thẩm thì Hội thẩm phát biểu, biểu quyết trước, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phát biểu và biểu quyết sau. Trong trường hợp không có ý kiến đa số thì chủ tọa phiên tòa phải cho thảo luận lại vấn đề đó và biểu quyết lại để lấy ý kiến đa số. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được lưu trong hồ sơ vụ án.
Trong thực tiễn cũng có thể xảy ra trường hợp sau khi thảo luận, biểu quyết nhiều lần nhưng không có ý kiến đa số, tức là không thể tuyên án được. Trường hợp này Tòa án cũng không thể hoãn phiên tòa, tạm ngừng phiên tòa vì cả hai quyết định này đều không có căn cứ theo quy định của pháp luật. Mặc dù đây là trường hợp rất hy hữu nhưng không có nghĩa là không xảy ra và khi xảy ra thì luật lại không quy định thủ tục giải quyết thế nào. Nếu gặp trường hợp “khó xử” này, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa nên cân nhắc xem ý kiến nào hợp lý hơn, đúng hơn (dù chưa hẳn là đúng) thì biểu quyết theo ý kiến đó để có ý kiến đa số và quyết định theo đa số.
Sau khi tuyên án, nếu thấy việc xét xử không đúng thì báo cáo Chánh án Tòa án để kiến nghị nhằm giải quyết vụ án đúng pháp luật. Việc nghị án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ của vụ án, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác.
Theo chúng tôi, ngoài những vấn đề đưa ra để thảo luận và biểu quyết quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h khoản 3 Điều 326: Vụ án có thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc thuộc trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay không; tính hợp pháp của những chứng cứ tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập, Luật sư bị can, bị cáo và người tham gia tố tụng khác cung cấp; xác định có hay không có căn cứ kết tội bị cáo, điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự được áp dụng (kể cả trường hợp có tội và không có tội); vấn đề hình phạt, biện pháp tư pháp áp dụng đối với bị cáo, trách nhiệm bồi thường thiệt hại; vấn đề dân sự trong vụ án hình sự; bị cáo có thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hay không; án phí hình sự, dân sự, xử lý vật chứng; kiến nghị phòng ngừa tội phạm, khắc phục vi phạm,… thì một số vấn đề quan trọng khác mà điều luật chưa đề cập đến nhưng trong thực tiễn xét xử, khi nghị án Hội đồng xét xử cần phải thảo luận và quyết định, đó là:
Một, chủ thể phạm tội là ai, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo như thế nào? Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.
Hai, trường hợp nếu không có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt thì Hội đồng xét xử thảo luận và biểu quyết về hình phạt khác.
Ba, Hội đồng xét xử thảo luận, quyết định về hình phạt bổ sung nếu như điều luật có quy định về hình phạt bổ sung; thảo luận, áp dụng hay không áp dụng các biện pháp tư pháp; bắt tạm giam hoặc trả tự do cho bị cáo.
Đây là những vấn đề quan trọng cần giải quyết vụ án khi nghị án, tuy nhiên tại khoản 3 của Điều 326 chưa đề cập đến. Do đó cần có sự nghiên cứu bổ sung thêm các vấn đề cần giải quyết trong quá trình nghị án nêu trên để giúp cho việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện và đầy đủ theo quy định của pháp luật.