Vai trò của Luật sư trong việc đánh giá và sử dụng chứng cứ.
Đánh giá chứng cứ có vai trò rất quan trọng và có ý nghĩa pháp lý rất lớn đối với việc lựa chọn các chứng cứ đưa vào sử dụng làm căn cứ buộc tội hay bác bỏ sự buộc tội trong quá trình tố tụng.
Đây là một khâu của quá trình chứng minh vụ án hình sự, trong đó những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện việc xác định giá trị của các tài liệu, vật chứng đã thu thập được nhằm chứng minh những vấn đề cần thiết trong vụ án cụ thể.
Đánh giá chứng cứ là “quá trình hoạt động phân tích của cơ quan tiến hành tố tụng nhằm xác định giá trị chứng minh của chứng cứ đối với những vấn đề cần phải giải quyết trong vụ án hình sự”. Như vậy, có thể thấy rằng đánh giá chứng cứ là hoạt động của con người trong tố tụng hình sự và hoạt động này thể hiện quan điểm, nhận thức, tư duy của người tiến hành tố tụng. Vì vậy, có thể thấy rằng, việc đánh giá chứng cứ sẽ phần nào chịu ảnh hưởng bởi tư cách tố tụng, trình độ chuyên môn, khả năng nhận thức, tư duy của mỗi người, phụ thuộc vào cơ sở pháp luật hình sự, pháp luật Tố tụng hịnh sự (TTHS) và ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa. Vấn đề đánh giá chứng cứ là rất phức tạp, cùng một chứng cứ, cùng một hồ sơ hoặc cùng một tình tiết nhưng quan điểm đánh giá nhiều khi rất khác nhau.
Như vậy, ta thấy rằng các tài liệu thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử mới chỉ là nguồn chứng cứ. Người tiến hành tố tụng phải sàng lọc, phân loại, đánh giá tài liệu nào, lời khai nào, vật chứng nào, kết luận giám định nào… được coi là chứng cứ. Tiêu chí để coi một hay nhiều nguồn chứng cứ là chứng cứ, khi chứng cứ đó phải có tính hợp pháp, tính khách quan và tính liên quan của chúng. Không đáp ứng được ba tiêu chí trên chúng không được coi là chứng cứ và không được sử dụng để chứng minh tội phạm mặc dù chúng đang tồn tại trong hồ sơ vụ án, cụ thể:
– Thứ nhất, yêu cầu về tính hợp pháp của chứng cứ: Khi tiến hành đánh giá chứng cứ phải rà soát để xác định tính hợp pháp của chứng cứ, những chứng cứ đó được phát hiện, thu thập thế nào, có tuân thủ theo các quy định của pháp luật TTHS hay không.
– Thứ hai, yêu cầu về tính khách quan và tính liên quan của chứng cứ. Tính khách quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ các tài liệu, vật chứng đã thu thập được phải phán ánh quy luật khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của bất kỳ ai. Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ, các chứng cứ đó có liên quan đến vụ án hình sự đang được giải quyết hay không; các chứng cứ đó có giá trị và ý nghĩa thế nào trong mối quan hệ với đối tượng chứng minh? Do vậy, khi đánh giá chứng cứ phải đánh giá từng chứng cứ, xác định giá trị của chứng cứ đó, tức là chứng cứ đó chứng minh cho đối tượng nào của vụ án, hiệu quả cao hay thấp, đánh giá mối quan hệ giữa các chứng cứ đối chiếu với thực tế khách quan xem có phù hợp hay không. Sau đó đánh giá toàn bộ chứng cứ để rút ra kết luận về vụ án.
– Thứ ba, khi đánh giá chứng cứ, người tiến hành tố tụng phải đánh giá tổng hợp chứng cứ, xác định xem xét toàn bộ chứng cứ thu thập được đã đầy đủ chưa, đã đủ cơ sở để chứng minh tội phạm hay chưa. Ngoài ra, khi đánh giá chứng cứ người tiến hành tố tụng cần phải có niềm tin nội tâm để có sự tin tưởng vào kết luận mà mình đưa ra là đúng. Niềm tin nội tâm được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động nghề nghiệp, nó phụ thuộc vào trình độ hiểu biết, kinh nghiệm nghề nghiệp, sự từng trải cũng như trách nhiệm, lương tâm của người tiến hành tố tụng… Niềm tin nội tâm sẽ không thể chính xác nếu người tiến hành tố tụng không có những kiến thức, kinh nghiệm nghề nghiệp hoặc thiếu đi sự vô tư khách quan khi đánh giá sự việc.
Theo quy định pháp luật hiện hành, Luật sư có một vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá chứng cứ. Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo, Luật sư sẽ cùng với thân chủ của mình trở thành một bên trong tố tụng; Luật sư phải sử dụng tổng hợp những kinh nghiệm nghề nghiệp và kiến thức chuyên môn của mình trong đó có kiến thức về chứng cứ và đánh giá chứng cứ nhằm bác lại những quan điểm đối lập, bảo vệ quan điểm của mình. Chính vì vậy, có thể nói, luật sư có vai trò rất quan trọng cùng với những người tiến hành tố tụng khác trong việc đánh giá chứng để tìm ra sự thật khách quan của vụ án hình sự.
Trong toàn bộ quy trình tố tụng, giai đoạn xét xử đóng vai trò trung tâm trong việc đánh giá chứng cứ, đây là giai đoạn quyết định tính đúng đắn, khách quan của việc chứng minh sự thật của vụ án. Phiên toà là nơi toà án bằng thủ tục công khai, toàn diện thực hiện cuộc điều tra chính thức để xác định sự thật khách quan của vụ án. Toà án quyết định giải quyết vụ án dựa trên các chứng cứ được thu thập và việc đánh giá các chứng cứ công khai tại phiên toà. Phiên toà có sự tham gia đầy đủ của các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng với địa vị pháp lý được xác định. Thông qua phiên toà, Luật sư (bên gỡ tội) cũng như đại diện Viện kiểm sát (bên buộc tội) và các bị cáo, người bị hại… sẽ chứng minh sự thật vụ án (bao gồm cả quá trình thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ) theo quan điểm mỗi bên. Quá trình chứng minh này được thực hiện một cách bình đẳng, dân chủ và công khai tại phiên toà. Hơn ở đâu hết, vai trò của Luật sư sẽ được phát huy và bảo đảm đầy đủ nhất bằng thủ tục tố tụng trực tiếp, công khai thông qua việc xét hỏi, tranh luận, phát biểu ý kiến đánh giá chứng cứ, đề xuất ý kiến.
Vai trò của Luật sư đã được quy định rất rõ trong Bộ luật TTHS 2003, cụ thể tại Điều 19 ghi rõ “Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Toà án. Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án”. Điều này lại được nhấn mạnh một lần nữa trong công cuộc cải cách tư pháp, tại Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính chị “về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” đã đặc biệt quan tâm đến vai trò của Luật sư và đặt nhiệm vụ cho cơ quan tư pháp trong việc đảm bảo hoạt động của Luật sư trong tố tụng hình sự. Nghị quyết đã nêu rõ “Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ , ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa….”; “Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để Luật sư tranh luận dân chủ tại phiên toà”.
Theo đó, Kiểm sát viên và Luật sư đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tranh tụng trước toà. Thông qua việc xét hỏi công khai tại phiên toà, luật sư sẽ công khai đưa ra ý kiến đánh giá của mình về chứng cứ và sự thật khách quan của vụ án để phản biện lại những quan điểm của đại diện Viện kiểm sát giúp cho Toà án cân nhắc trước khi đưa ra phán quyết.
Ngoài ra, vai trò của Luật sư trong việc đánh giá chứng của vụ án còn được thể hiện ở việc trao đổi, đề xuất với Toà án và Viện kiểm sát những vấn đề về chứng cứ của vụ án. Trong quá trình tranh tụng tại phiên toà, luật sư phải xem xét đã đủ chứng cứ để buộc tội bị cáo chưa, nếu còn thiếu thì đó là chứng cứ quan trọng hay không quan trọng đối với vụ án, có thể bổ sung tại phiên toà được hay không, có đúng bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như đã truy tố, hoặc phạm một tội khác hoặc có người khác cùng phạm tội với bị cáo…
Trường hợp Luật sư phát hiện ra những dấu hiệu không đảm bảo về chứng cứ trong quá trình xét xử, như chưa đủ chứng cứ hoặc chứng cứ yếu thì hoàn toàn có thể đưa ra đề xuất trao đổi với Toà án hay Viện kiểm sát như: Đề nghị trả hồ sơ điều tra bổ sung (khi thấy hồ sơ còn thiếu những chứng cứ quan trọng hay thấy có vi phạm về thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra thu thập chứng cứ..); Đề nghị triệu tập người làm chứng đến phiên toà (trong trường hợp luật sư nghiên cứu thấy người làm chứng quan trọng có lời khai buộc tội bị cáo, nhưng lời khai này có nhiều điểm chưa rõ hoặc có mâu thuẫn với những chứng cứ khác trong vụ án, nếu người làm chứng không có mặt trong phiên toà thì sự công bố lời khai của họ có thể ảnh hưởng đến sự thật khách quan của vụ án…)
Nguồn: hocvientuphap.edu.vn
» Kỹ năng viết bài bào chữa, bảo vệ trong vụ án hình sự
Thủ tục, giấy tờ mua bán xe cũ theo Thông tư 24/2023/TT-BCA của Bộ công…
Kế toán trong lĩnh vực văn phòng luật sư, công ty luật. Lĩnh tư vấn…
Tổng hợp văn bản liên quan đến giao thông đường bộ. Các văn bản luật…
Đăng ký đất đai lần đầu là rất quan trọng. Việc không đăng ký đất…
Một luật sư có được tham gia 2 (hai) tổ chức hành nghề luật sư…
Luật sư giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng. Khi có tranh chấp về…
» Luatsubaoho.com - Tư vấn pháp luật: 0768236248 - Chat Zalo