Tư vấn các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

Tư vấn các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả; góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và tổ chức, bảo vệ và thúc đẩy kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa phát triển đúng hướng, tạo môi trường xã hội và môi trường sinh thái an toàn, lành mạnh cho mọi người dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Luật sư tư vấn các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

Khái niệm tội xâm phạm hoạt động tư pháp được quy định tại Điều 367 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:
“Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm sự đúng đắn của hoạt động tố tụng và thi hành án.”

1. Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp:

Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015 chương XXIV từ điều 367 đến điều 391 và được chia làm 2 mục như sau:

Điều 367. Khái niệm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
Điều 368. Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội
Điều 369. Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội
Điều 370. Tội ra bản án trái pháp luật
Điều 371. Tội ra quyết định trái pháp luật
Điều 372. Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật
Điều 373. Tội dùng nhục hình
Điều 374. Tội bức cung
Điều 375. Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc
Điều 376. Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn
Điều 377. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật
Điều 378. Tội tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù
Điều 379. Tội không thi hành án
Điều 380. Tội không chấp hành án
Điều 381. Tội cản trở việc thi hành án
Điều 382. Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối
Điều 383. Tội từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định, định giá tài sản hoặc từ chối cung cấp tài liệu
Điều 384. Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu
Điều 385. Tội vi phạm việc niêm phong, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản
Điều 386. Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị áp giải, đang bị xét xử
Điều 387. Tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù
Điều 388. Tội vi phạm quy định về giam giữ
Điều 389. Tội che giấu tội phạm
Điều 390. Tội không tố giác tội phạm
Điều 391. Tội gây rối trật tự phiên tòa

2. Một số dấu hiệu của tội xâm phạm hoạt động tư pháp

Khách thể của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp:

Khách thể của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động tố tụng (điều tra, truy tố, xét xử) và hoạt động thi hành án được luật hình sự bảo vệ. Các tội phạm này không chỉ xâm phạm đến tính đúng đắn, uy tín, chất lượng, hiệu quả của hoạt động tư pháp, mà còn xâm phạm đến quyền lợi, uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân (khái niệm cá nhân rộng hơn khái niệm công dân). Ngoài ra, hoạt động tư pháp còn bao gồm các hoạt động bổ trợ tư pháp, hỗ trợ tư pháp có liên quan trực tiếp và là căn cứ quan trọng để cơ quan tư pháp xem xét, quyết định theo thẩm quyền. Do vậy, các hoạt động bổ trợ tư pháp, hỗ trợ tư pháp cũng là khách thể của tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Ví dụ: Giám định viên làm sai lệch kết luận giám định hoặc từ chối kết luận giám định (Điều 382, Điều 383 BLHS 2015) hoặc cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp có hành vi nhục hình người bị tạm giữ, tạm giam (Điều 373 BLHS 2015)….

Chủ thể của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp:

Chủ thể của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp phần lớn là chủ thể đặc biệt, là người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan tư pháp hoặc trong cơ quan nhà nước khác hoặc tổ chức; người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và những người khác có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp. Theo quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng thì chủ thể này là cán bộ có chức danh pháp lý hoặc không có chức danh pháp lý nhưng được giao nhiệm vụ hoạt động tư pháp hoặc đồng phạm với cán bộ có chức danh pháp lý phạm tội trong quá trình làm nhiệm vụ. Ví dụ: Chiến sĩ được giao nhiệm vụ bảo vệ trại tạm giam có hành vi thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn (Điều 376); cán bộ trinh sát, cán bộ điều tra, sinh viên thực tập cũng có thể là chủ thể của tội phạm Dùng nhục hình (Điều 373)…

Chủ thể của tội xâm phạm hoạt động tư pháp:

Chủ thể của tội xâm phạm hoạt động tư pháp có thể là người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước khác (Tội cản trở thi hành án); những người tham gia tố tụng (bị can, bị cáo, giám định, phiên dịch…); người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp khác hoặc là bất kỳ người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự (Tội không tố giác tội phạm, tội che giấu tội phạm…).

Mặt khách quan của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp:

Mặt khách quan của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được thực hiện chủ yếu dưới dạng hành động (nhục hình, bức cung, trốn khỏi nơi giam, giữ…) hoặc không hành động (không chấp hành án…). Phần lớn các tội xâm phạm hoạt động tư pháp có cấu thành hình thức (16/23 tội), tội phạm hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội, mà không cần phải có hậu quả xảy ra.

Còn lại 07 tội có cấu thành vật chất, gồm: Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 371); Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật (Điều 372); Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn (Điều 376); Tội không thi hành án (Điều 379); Tội cản trở việc thi hành án (Điều 381); Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị áp giải, đang bị xét xử (Điều 386); Tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù (Điều 387). Những tội phạm trên thì thời điểm tội phạm hoàn thành khi có những hậu quả thiệt hại nhất định đối với mỗi tội danh. Tuy nhiên, cần phân biệt hậu quả thiệt hại với việc khắc phục hậu quả. Việc khắc phục hậu quả chỉ là tình tiết để xem xét đường lối khi xử lý, không phải là căn cứ để xác định cấu thành tội phạm hay không.

Việc xác định hậu quả của hành vi phạm tội đã có thay đổi căn bản, BLHS 1999 không định lượng, nhưng BLHS 2015 đã định lượng rất cụ thể hậu quả đối với từng tội phạm.

Mặt chủ quan của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp:

Mặt chủ quan của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp đều có lỗi cố ý (hầu hết các tội là lỗi cố ý trực tiếp, một số trường hợp là cố ý gián tiếp), trừ tội Thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn (Điều 376) là lỗi vô ý; động cơ mục đích phạm tội rất đa dạng nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, thực tiễn xác định lỗi cố ý gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp; một số trường hợp theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành thiếu tính khả thi và rất khó chứng minh được hành vi phạm tội. Trong đó cần lưu ý quy định “mà mình biết rõ” (quy định tại 04 điều: 368, 369, 370, 371 BLHS 2015), được hiểu là người phạm tội phải nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật nhưng vẫn làm và mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả xảy ra. Trên thực tế, người phạm tội ít khi thừa nhận mình biết rõ, chủ yếu do cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào hành vi khách quan và các dấu hiệu khác để chứng minh ý thức chủ quan của người phạm tội.

» Tư vấn các tội phạm về chức vụ

» Luật sư tranh tụng các vụ án hình sự

Luật sư tư vấn các tội xâm phạm hoạt động tư pháp: