Tiền cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn là bao nhiêu?

Tiền cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn là bao nhiêu? Khi khởi kiện tranh chấp tiền cấp dưỡng nuôi con, người trực tiếp nuôi con khi có căn cứ thấy rằng việc cấp dưỡng, chi trả tiền cấp dưỡng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì có quyền khởi kiện đến Tòa án về tranh chấp tiền cấp dưỡng, cả khi thỏa thuận này không được thực hiện đúng, đủ nên người nuôi con khởi kiện tới Tòa án để yêu cầu giải quyết tranh chấp tiền cấp dưỡng nuôi con. 

Tiền cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn là bao nhiêu?

1. Quy định mức cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn hiện nay

Yêu cầu tiền cấp dưỡng nuôi con bao nhiêu thì phù hợp?

Thực tế khi ly hôn với chồng là người có thu nhập rất cao, hoặc là người nước ngoài, người vợ luôn yêu cầu mức cấp dưỡng nuôi con ở mức có thể chi trả tiền học cho con ở các trường quốc tế. Vậy Tòa án có chấp thuận không? Thông thường Tòa án sẽ làm rõ việc: (i) Điều kiện học và điều kiện sống của con hiện tại thì yêu cầu này có phù hợp; (ii) Mong muốn của người chồng về việc hỗ trợ để tiếp tục cho người con có điều kiện học tập ở những nơi có điều kiện tốt nhất; . Do dó, yêu cầu tiền cấp dưỡng cao hay quá cao không quan trọng, quan trọng là nó hợp lý, tốt cho sự phát triển của con. 

Căn cứ xác định tiền chi trả hợp lý để nuôi con

Thông thường Tòa án căn cứ theo các điều kiện sống của con từ thời điểm sinh đến thời điểm hiện tại, hoặc xem xét điều kiện sinh hoạt, học tập của con hiện tại để xác định số tiền cần chi trả để nuôi con. Đây là căn cứ quan trọng để xác định mức cấp dưỡng người không nuôi con phải chịu.

Ví dụ Khi ly hôn mẹ là người trực tiếp nuôi con, bố là người được xác định có nghĩa vụ cấp dưỡng.

Con chung sống với mẹ từ trước đó, đã quen với điều kiện, môi trường sống và được anh mẹ nuôi dưỡng, chăm sóc trong điều kiện tốt. Như vậy có thể dùng mức chi phí nuôi con hiện tại để xác định nghĩa vụ cấp dưỡng.

Trường hợp điều kiện nuôi con cần cải thiện thì người trực tiếp nuôi con cần đề xuất với Tòa án và xuất trình chứng cứ để Tòa án thấy được rằng việc thay đổi là cần thiết.

1.2. Mức cấp dưỡng nuôi con tối thiểu là bao nhiêu?

Pháp luật hiện hành không quy định mức cấp dưỡng cụ thể là 2 triệu, 5 triệu hay 50 triệu một tháng mà tạo điều kiện cho các bên tự thỏa thuận dựa vào điều kiện, thu nhập của người cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Thông thường thực tế Toà án thường ấn định mức cấp dưỡng dao động 15-30% mức thu nhập của người cấp dưỡng. Trường hợp không xác định được mức thu nhập của người cấp dưỡng thì lương tối thiểu vùng hoặc án lệ trước đó sẽ là căn cứ để Tòa án giải quyết vụ việc.

Về phương thức cấp dưỡng do các bên thoả thuận định kỳ: hàng tháng, hàng quý, 6 tháng, hàng năm hoặc một lần. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì Toà án quyết định phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng. 

2. Căn cứ xác định mức cấp dưỡng nuôi con hợp lý khi ly hôn

Khái niệm tiền cấp dưỡng nuôi con theo Luật Hôn nhân và gia đình

Cấp dưỡng theo quy định tại khoản 24 Điều 3 Luật HNGĐ 2014 là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu.

Xem xét nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con trong những trường hợp nào?

Theo quy định của Luật HNGĐ 2014 thì nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con; Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác (khoản 1 Điều 107). Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con (Điều 110). Cụm từ “không có khả năng lao động” hiện nay không được pháp luật quy định cụ thể. Do vậy, khả năng lao động có thể hiểu là khả năng dùng sức lực của người đó để tham gia vào quá trình sản xuất lao động nhằm tạo ra của cải vật chất phục vụ trước hết là cho nhu cầu vật chất, tinh thần cho chính bản thân người đó. Người không có khả năng lao động là người vì bị bệnh tật hay khiếm khuyết bộ phận cơ thể… mà không thể tham gia lao động nhằm nuôi sống bản thân họ.

Giá trị của việc thỏa thuận mức cấp dưỡng nuôi con

Theo quy định tại Điều 116 HNGĐ thì mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Vướng mắc trong xác định mức cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn

Theo quy định tại Điều 116 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì khi quyết định mức cấp dưỡng nuôi con, Tòa án phải căn cứ vào hai yếu tố đó là việc cấp dưỡng phải đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng và phải căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể thế nào là “thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng” và “nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng” theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Trước đây, theo khoản 1 Điều 16 Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Nghị định 70/2001/NĐ-CP ) thì “khả năng thực tế của người có nghĩa cấp dưỡng là người có thu nhập thường xuyên hoặc tuy không có thu nhập thường xuyên nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí thông thường cần thiết cho cuộc sống của người đó”. Còn theo khoản 2 Điều 16 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP thì: “Nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng được xác định căn cứ vào mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi người được cấp dưỡng cư trú, bao gồm các chi phí thông thường cần thiết về ăn, ở, mặc, học, khám chữa bệnh và các chi phí thông thường cần thiết khác để bảo đảm cuộc sống của người được cấp dưỡng”.

Tuy nhiên, với những quy định như vậy, rất khó để Tòa án có thể tính toán được thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng cũng như tính toán nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Từ vướng mắc trong thực tiễn như vậy, Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 được ban hành và có hướng dẫn như sau: “Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì tuỳ vào từng trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi con cho hợp lý”.

Cần làm đơn đòi tiền cấp dưỡng nuôi con chuẩn quy định

3. Nộp đơn yêu cầu trả tiền cấp dưỡng nuôi con tại đâu?

Căn cứ vào bản án/ quyết định của Tòa án về việc ghi nhận mức cấp dưỡng nuôi con, thời điểm chi trả tiền cấp dưỡng nuôi con nhưng người có nghĩa vụ cấp dưỡng lại không thực hiện đúng, đủ thì người nuôi con được quyền gửi đơn nhờ Chi cục thi hành án đòi tiền cấp dưỡng nuôi con cho mình. 

Chế tài xử lý việc chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng

Khi nghĩa vụ cấp dưỡng đã được ấn định theo thỏa thuận của vợ chồng, hoặc ghi nhận trong bản án, quyết định của Tòa án. Việc chậm thực hiện nghĩa vụ theo từng kỳ cũng bị coi là chậm thực hiện nghĩa vụ (Điều 282 Bộ luật Dân sự 2015). Trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ được quy định tại Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau: “1. Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả; 2. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này.”

Như vậy, nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện bằng tiền nên chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cũng có tính chất như chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền nên người chậm thực người chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải chịu tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Do đó người có nghĩa vụ phải chịu tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015. 

» Luật sư tư vấn ly hôn

» Mức cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn là bao nhiêu?