Quyền và nghĩa vụ của luật sư trong vụ án dân sự

Quyền và nghĩa vụ của luật sư trong vụ án dân sự. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình là một trong những quyền dân sự của công dân. Đương sự có thể tự mình hoặc nhờ luật sư tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, điều này đã ghi nhận rất cụ thể về quyền và nghĩa vụ của luật sư tại Điều 76 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015. 

Tư vấn quyền và nghĩa vụ của luật sư trong vụ án dân sự

I. Quy định về Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tại Điều 75 BLTTDS.

1. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

2. Những người sau đây được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi có yêu cầu của đương sự và được Tòa án làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự:

a) Luật sư tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật về luật sư;…

3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhiều đương sự trong cùng một vụ án, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của những người đó không đối lập nhau. Nhiều người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể cùng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của một đương sự trong vụ án. 

4. Khi đề nghị Tòa án làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người đề nghị phải xuất trình các giấy tờ sau đây:

a) Luật sư xuất trình các giấy tờ theo quy định của Luật luật sư;

5. Sau khi kiểm tra giấy tờ và thấy người đề nghị có đủ điều kiện làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này thì trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đề nghị, Tòa án phải vào sổ đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và xác nhận vào giấy yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trường hợp từ chối đăng ký thì Tòa án phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người đề nghị.”

Dẫn chiếu Điều 27 Luật luật sư về Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư:

“1. Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng và Luật này.

2. Khi tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự, luật sư xuất trình Thẻ luật sư và giấy yêu cầu luật sư của khách hàng. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ khi luật sư xuất trình Thẻ luật sư và giấy yêu cầu luật sư của khách hàng, cơ quan tiến hành tố tụng cấp Giấy chứng nhận về việc tham gia tố tụng của luật sư, trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Trong trường hợp người tập sự hành nghề luật sư đi cùng với luật sư hướng dẫn trong các vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo quy định tại khoản 3 Điều 14 của Luật này thì khi liên hệ với cá nhân, cơ quan, tổ chức, luật sư hướng dẫn xuất trình Giấy chứng nhận người tập sự hành nghề luật sư và giấy tờ xác nhận có sự đồng ý của khách hàng.

3. Khi tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa, luật sư được cơ quan tiến hành tố tụng cấp Giấy chứng nhận người bào chữa. Giấy chứng nhận người bào chữa có giá trị trong các giai đoạn tố tụng, trừ trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo từ chối hoặc yêu cầu thay đổi luật sư hoặc luật sư không được tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.

Khi đề nghị cấp Giấy chứng nhận người bào chữa, luật sư xuất trình các giấy tờ sau đây:

a) Thẻ luật sư;

b) Giấy yêu cầu luật sư của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc của người khác hoặc văn bản cử luật sư của tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề hoặc văn bản phân công của Đoàn luật sư đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân trong trường hợp tham gia tố tụng trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hoặc trong trường hợp thực hiện trợ giúp pháp lý.

Trong trường hợp người tập sự hành nghề luật sư đi cùng với luật sư hướng dẫn trong vụ án hình sự theo quy định tại khoản 3 Điều 14 của Luật này thì khi đề nghị cấp Giấy chứng nhận người bào chữa, luật sư hướng dẫn gửi kèm theo Giấy chứng nhận người tập sự hành nghề luật sư và giấy tờ xác nhận có sự đồng ý của khách hàng đến cơ quan tiến hành tố tụng để đề nghị cho phép người tập sự được đi cùng luật sư hướng dẫn.

Chậm nhất là ba ngày làm việc hoặc 24 giờ đối với trường hợp tạm giữ, kể từ khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ, cơ quan tiến hành tố tụng cấp Giấy chứng nhận người bào chữa cho luật sư, trong đó cho phép người tập sự hành nghề luật sư tham gia vụ việc (nếu có); trong trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Người bị từ chối có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật tố tụng.

Khi cần liên hệ với cá nhân, cơ quan, tổ chức để thực hiện quyền, nghĩa vụ và các hoạt động có liên quan đến việc bào chữa trong vụ án hình sự, luật sư xuất trình Thẻ luật sư và Giấy chứng nhận người bào chữa của luật sư.

4. Luật sư chỉ bị từ chối cấp Giấy chứng nhận người bào chữa khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện cho bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất từ chối luật sư;

b) Luật sư là người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó;

c) Luật sư đã tham gia trong vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc người phiên dịch;

d) Luật sư là người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó.

5. Cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước khác và tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư thực hiện quyền và nghĩa vụ của luật sư khi hành nghề, không được cản trở hoạt động hành nghề của luật sư.”

II. Quyền, nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tại Điều 76 BLTTDS

1. Tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá trình tố tụng dân sự.

2. Thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án; nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trừ tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này.

3. Tham gia việc hòa giải, phiên họp, phiên tòa hoặc trường hợp không tham gia thì được gửi văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cho Tòa án xem xét.

4. Thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này.

5. Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; trường hợp được đương sự ủy quyền thì thay mặt đương sự nhận giấy tờ, văn bản tố tụng mà Tòa án tống đạt hoặc thông báo và có trách nhiệm chuyển cho đương sự.

6. Các quyền, nghĩa vụ quy định tại các khoản 1, 6, 16, 17, 18, 19 và 20 Điều 70 của Bộ luật này.

7. Quyền, nghĩa vụ khác mà pháp luật có quy định.

Giải thích chi tiết Điều 76 BLTTDS:

1. Luật sư tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá trình tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, luật sư có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự. BLTTDS quy định luật sư có quyền “tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá trình TTDS” (Điều 76 BLTTDS). Trong giai đoạn khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự, luật sư sẽ tư vấn, hỗ trợ đương sự về việc quyết định có nên khởi kiện hay không, có hướng nào khác tốt hơn mà không cần khởi kiện, khởi kiện ai, yêu cầu gì, căn cứ pháp lý v.v…,. Sau khi đã thống nhất với đương sự và quyết định khởi kiện, luật sư sẽ hỗ trợ đương sự soạn thảo đơn khởi kiện, chuẩn bị hồ sơ khởi kiện, nộp đơn khởi kiện…. Trong giai đoạn sơ thẩm, luật sư tham gia tố tụng giúp đương sự thu thập, giao nộp chứng cứ, tài liệu cần thiết cho Tòa án,đưa ra các yêu cầu, kiến nghị. hỗ trợ đương sự trong việc tham gia phiên họp xét chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa…. Ở giai đoạn phúc thẩm, luật sư tham gia tố tụng để tư vấn cho đương sự có nên kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm hay không, từ đó nếu đương sự quyết định kháng cáo thì luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự trong các giai đoạn tiếp theo.

2. Thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án

Để hỗ trợ hiệu quả cho đương sự, pháp luật tố tụng dân sự quy định luật sư có quyền “xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Toà án” (Khoản 2 Điều 76 BLTTDS). Quy định này tạo điều kiện cho luật sư có được các chứng cứ cần thiết để thực hiện việc tranh tụng, tìm ra những căn cứ cho việc biện hộ của mình, từ đó giúp đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Theo quy định này, luật sư có thể thu thập các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; thông điệp dữ liệu điện tử; thu thập vật chứng; xác định người làm chứng và lấy xác nhận của người làm chứng; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cho sao chép hoặc cung cấp những tài liệu có liên quan mà cơ quan, tổ chức, cá nhân đó đang lưu giữ, quản lý; yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ nếu đương sự, luật sư không thể thu thập tài liệu, chứng cứ; yêu cầu Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định, định giá tài sản; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện công việc khác theo quy định của pháp luật…

3. Nghiên cứu hồ sơ, được ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án.

Để bảo vệ cho đương sự có hiệu quả, BLTTDS quy định cho luật sư có quyền được nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án (Khoản 2 Điều 76 BLTTDS). Thông qua việc đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án, luật sư sẽ nắm được nội dung của vụ án, xác định được các chứng cứ để có phương án bảo vệ quyền lợi cho thân chủ. Đây là cơ sở giúp cho vụ việc được làm sáng tỏ, các tình tiết trong vụ việc được xem xét một cách thấu đáo. Ngoài ra, nghiên cứu hồ sơ, tài liệu vụ việc còn giúp luật sư có điều kiện phát hiện những sai lầm, thiếu xót, vi phạm pháp luật trong quá trình Toà án giải quyết vụ án.

4. Tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải

 Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải được tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Khi các bên không hòa giải được thì vụ án sẽ được đưa ra xét xử, đây có thể coi là bước cuối cùng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án. Vì vậy trước khi tiến hành mở phiên họp kiểm tra và phiên hòa giải, thẩm phán cần phải hoàn tất các nhiệm vụ của mình để làm sáng tỏ nội dung vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Kiểm tra việc tiếp cận chứng cứ là việc các đương sự, luật sư được thông báo về những tài liệu, chứng cứ mà các đương sự khác giao nộp và tài liệu, chứng cứ Tòa án thu thập được. Kiểm tra việc tiếp cận chứng cứ giúp các đương sự biết được các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào đó để đưa ra những lập luận chứng minh cho yêu cầu của mình; trường hợp thấy cần thiết thì yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập thêm tài liệu chứng cứ, giao nộp thêm tài liệu chứng cứ và yêu cầu Tòa án xác minh, giám định các chứng coa dấu hiệu giả mạo, gian dối của các đương sự khác.

Hòa giải là một thủ tục bắt buộc tiến hành ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Nếu hòa giải thành, Tòa án sẽ ban hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự mà không cần phải đưa vụ án ra xét xử. Khi tham gia hòa giải cùng đương sự, luật sư giúp, hướng dẫn đương sự thương lượng, thỏa thuận đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Trường hợp hòa giải không thành thì thông qua việc hòa giải này, luật sư sẽ nắm được thêm các thông tin hữu ích cho việc bảo vệ quyền lợi của thân chủ.

6. Luật sư tham gia phiên tòa sơ thẩm

Tại Phiên tòa sơ thẩm, ngoài phần mang tính chất thủ tục như kiểm tra sự có mặt, vắng mặt của đương sự, phổ biến nội quy phiên tòa….Phần nội dung được bắt đầu bằng việc các đương sự trình bày các yêu cầu của mình (Điều 248 BLTTDS năm 2015), theo đó khi các đương sự không tự thỏa thuận được với nhau thì luật sư của nguyên đơn trình bày về yêu cầu khởi kiện và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ. Tiếp theo, luật sư của bị đơn trình bày ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn; yêu cầu phản tố, đề nghị của bị đơn và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó. Luật sư của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với yêu cầu, đề nghị của nguyên đơn, bị đơn; yêu cầu độc lập, đề nghị của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Sau khi luật sư trình bày xong, các đương sự đều có quyền phát biểu bổ sung. Trong trường hợp nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có luật sư thì họ tự trình bày về yêu cầu, đề nghị của mình và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp.

Về việc tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm (Điều 260 BLTTDS năm 2015), tương tự như phần trình bày yêu cầu trên, luật sư của các đương sự cũng là người đưa ra các quan điểm tranh luận, đối đáp, trình bày các luận cứ, chứng cứ để chứng minh cho các yêu cầu của thân chủ là có căn cứ và hợp pháp, đề nghị Hội đồng xét xử chấp thuận các yêu cầu của thân chủ, bác bỏ yêu cầu của phía đối lập; các đương sự cũng có quyền phát biểu bổ sung nếu thấy cần thiết.

Nội dung hỏi và tranh tụng của luật sư có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Việc bảo vệ có đem lại kết quả tốt hay không phụ thuộc nhiều vào việc hỏi và tranh luận của luật sư tại phiên tòa. Luật sư có quyền hỏi các đương sự và những người khác về các vấn đề của vụ án để có được những câu trả lời theo hướng có lợi cho người được bảo vệ. Theo quy định của BLTTDS năm 2015, nguyên tắc đảm bảo trong tranh tụng là nguyên tắc được thể hiện xuyên suốt và chủ đạo, thay thế cho nguyên tắc tranh luận trước đây theo BLTTDS năm 2004. Theo đó, tranh tụng tại phiên tòa bao gồm việc trình bày chứng cứ, hỏi, đối đáp, trả lời và phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ, tình tiết của vụ án dân sự,…Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh tụng, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh tụng trình bày hết ý kiến của mình.

7. Tham gia phiên toà phúc thẩm

 Tại phiên toà phúc thẩm, nội dung và phương thức tranh tụng được thực hiện theo quy định tại Điều 247 năm 2015. Theo đó, trong trường hợp đương sự vẫn giữ kháng cáo thì luật sư của người kháng cáo trình bày nội dung kháng cáo, căn cứ của việc kháng cáo, người kháng cáo có quyền bổ sung ý kiến. Trường hợp tất cả đương sự đều kháng cáo thì việc trình bày được thực hiện theo thứ tự luật sư của nguyên đơn kháng cáo và nguyên đơn; luật sư của bị đơn kháng cáo và bị đơn; luật sư của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp đương sự không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình thì họ tự trình bày ý kiến về nội dung kháng cáo và đề nghị của mình. Luật sư của các đương sự khác có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị trình bày ý kiến về nội dung kháng cáo, kháng nghị, đương sự có quyền bổ sung ý kiến. Về thủ tục hỏi và công bố tài liệu, chứng cứ, xem xét vật chứng tại phiên tòa phúc thẩm được thực hiện như tại phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên, nhằm thể hiện đầy đủ nội dung nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong xét xử thì BLTTDS năm 2015 đã bổ sung nhiều nội dung về thủ tục hỏi. Trước đây, BLTTDS năm 2004 về thủ tục hỏi tại phiên tòa vẫn còn đề cao vai trò của Hội đồng xét xử, can thiệp quá nhiều vào quá trình tranh tụng. Việc hỏi các đương sự, người làm chứng về những vấn đề chưa rõ, còn mâu thuẫn lại không do các đương sự, luật sư của đương sự hỏi trước mà quyền hỏi này lại thuộc về các thành viên của Hội đồng xét xử. Hiện nay theo quy định tại Điều 249 BLTTDS năm 2015 thì thứ tự người hỏi đã có sự thay đổi; đương sự, luật sư của đương sự được hỏi trước tiên. Đây là một quy định mới, tiến bộ của BLTTDS năm 2015 nhằm đề cao vai trò chủ động, tích cực của đương sự, luật sư của đương sự đối với việc xác định sự thật của vụ án. Về tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, trước đây, Điều 273 BLTTDS năm 2004 quy định việc tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm được thực hiện như phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên, việc xét xử phúc thẩm là dựa trên kháng cáo, kháng nghị nên những người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị sẽ tranh luận, đối đáp về kháng cáo, kháng nghị để chứng minh kháng cáo, kháng nghị là có căn cứ và hợp pháp, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự. Vì vậy, BLTTDS năm 2015 đã quy định luật sư của người kháng cáo là người mở đầu tranh luận bằng việc trình bày các luận cứ, chứng cứ chứng minh cho các yêu cầu kháng cáo;  luật sư của các đương sự khác tranh luận, đối đáp. Tất cả các đương sự đều có quyền bổ sung ý kiến. Nếu đương sự không có luật sư của mình thì tự mình tranh luận.

8. Tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm

Phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm không được mở công khai nên những người tham gia tố tụng không bắt buộc phải tham gia phiên tòa. Tùy từng trường hợp mà Tòa án chỉ triệu tập tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm khi xét thấy cần thiết cho việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật (Điều 338, 357 BLTTDS năm 2015). Thủ tục tiến hành phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm được quy định cụ thể tại Điều 341, 357 BLTTDS năm 2015. Trong trường hợp luật sư của đương sự được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa thì họ được trình bày ý kiến của mình về những vấn đề mà Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm yêu cầu sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát trình bày nội dung kháng nghị. Trong trường hợp người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt nhưng có văn bản trình bày ý kiến thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm công bố ý kiến của họ. Nếu thấy có vấn đề nào chưa rõ thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm có thể hỏi thêm để làm sáng tỏ vụ án.

Trong thực tế, rất hiếm khi Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm triệu tập đương sự tham gia Phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm chủ yếu dựa vào hồ sơ Vụ án và đơn, hồ sơ, chứng cứ đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm của đương sự. Việc có được kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm hay không phụ thuộc vào nội dung, căn cứ đề nghị kháng nghị. Do vậy, vai trò đặc biệt quan trọng, chủ yếu của luật sư trong giai đoạn này là hỗ trợ đương sự soạn thảo đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm và tác tài liệu, chứng cứ, lập luận để chứng minh bản án, quyết định của cấp sơ thẩm và/hoặc phúc thẩm là sai trái, không khách quan, toàn diện, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc phát sinh những tình tiết mới làm thay đổi nội dung vụ án mà trước đó đương sự và cấp sơ thẩm, phúc thẩm không biết khi ban hành bản án, quyết định đó. Có thể nói, việc đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm có thành công hay không là phụ thuộc vào hồ sơ đề nghị, bởi giám đốc thẩm, tái thẩm là một trình tự đặc biệt, người có thẩm quyền kháng nghị không có nghĩa vụ mặc nhiên phải kháng nghị xem xét lại bản án, quyết định sơ thẩm, phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật.

» Quy trình, trình tự giải quyết vụ án dân sự

» Quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự