Các trường hợp vi phạm nghiêm trọng tố tụng hình sự

Các trường hợp vi phạm nghiêm trọng tố tụng hình sự, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Những bản án Tòa án xét xử với kết quả Giữ nguyên án sơ thẩm; Hủy án để điều tra, xét xử lại; Chuyển án Treo; Sửa án sơ thẩm gồm: (Giảm hình phạt và sửa điểm khoản; Tăng hình phạt và sửa điểm khoản; Miễn trách nhiệm hình sự; chuyển Cải tạo không giam giữ; Đổi tội danh và giảm hình phạt; chuyển án Treo sang tù giam; chuyển tù giam sang Phạt tiền; Tăng bồi thường).

Các trường hợp vi phạm nghiêm trọng tố tụng hình sự

Vấn đề đặt ra là phúc thẩm hủy, sửa án sơ thẩm do chấp nhận kháng nghị, kháng cáo nhưng cũng có trường hợp không chấp nhận do không có vi phạm hoặc vi phạm không đáng để hủy, sửa án.

I. Vậy như thế nào là có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự?

Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự được quy định tại điểm o, khoản 1 Điều 4 BLTTHS 2015 về Giải thích từ ngữ:

“1. Trong Bộ luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
……………

o) Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là việc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án.”

Khái niệm này đã chỉ rõ 4 đặc điểm về vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng gồm:
1. Phải có hành vi không thực hiện những quy định bắt buộc trong Bộ luật Tố tụng hình sự khi tiến hành tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng;
2. Có hành vi thực hiện nhưng thực hiện không đúng theo trình tự, thủ tục đã quy định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng;
3. Các hành vi trên phải xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự…;
4. Việc bỏ qua hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ thủ tục làm cho việc giải quyết vụ án thiếu khách quan toàn diện (như đối với các vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc bị truy tố ở khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bắt buộc phải chỉ định Luật sư, nhưng bỏ qua không thực hiện là xâm phạm nghiêm trọng đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo đã được pháp luật quy định).

Những vi phạm thuộc các trường hợp trên đều coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụngphải được điều tra, truy tố lại hoặc xét xử lại nên Tòa phúc thẩm phải hủy án sơ thẩm; còn những vi phạm ngoài phạm vi khái niệm này thì được coi là những vi phạm tố tụng không nghiêm trọng và chỉ thực hiện việc kiến nghị sửa chữa, khắc phục (như vi phạm về thời hạn điều tra, thời hạn xét xử… cũng là vi phạm tố tụng nhưng không thuộc trường hợp vi phạm nghiêm trọng).

II. Các điều luật liên quan có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng

1. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại Điều 280.

“1. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp:…………..
d) Việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.”

2. Hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại Điều 358.

“1. Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại trong các trường hợp:………..
c) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố.”

3. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tại Điều 371.

“Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong các căn cứ:………

2. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án;”

III. Những trường hợp được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự:

Thông tư liên tịch 02/2017 đề cập đến đó là việc phối hợp thực hiện trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong trường hợp “khi có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng” (quy định tại điểm d khoản 1 Điều 245 và điểm d khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015).

Vậy, vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng bao gồm những trường hợp cụ thể nào, để căn cứ vào đó mà Viện kiểm sát hoặc Tòa án quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung?

Theo quy định tại Điều 6 Thông tư liên tịch 02/2017, khi phát hiện vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì Viện kiểm sát, Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung:

1. Lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mà theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, nhưng không có phê chuẩn của Viện kiểm sát hoặc việc ký lệnh, quyết định tố tụng không đúng thẩm quyền;

2. Không chỉ định, thay đổi hoặc chấm dứt việc chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội theo quy định tại Điều 76 và Điều 77 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

3. Xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ;

4. Khởi tố vụ án hình sự nhưng không có yêu cầu của bị hại hoặc của người đại diện của bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 155 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

5. Nhập vụ án hoặc tách vụ án không đúng quy định tại Điều 170 hoặc Điều 242 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

6. Không cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết hoặc thông báo văn bản tố tụng gồm lệnh, quyết định, yêu cầu, kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án cho người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật xâm hại nghiêm trọng đến quyền bào chữa, quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác;

7. Chưa điều tra, lập lý lịch của bị can; chưa xác định được những đặc điểm quan trọng về nhân thân của bị can, bị cáo (tuổi, tiền án, tiền sự), lý lịch hoạt động của pháp nhân thương mại phạm tội (tên, địa chỉ, những vấn đề khác liên quan đến hồ sơ pháp lý của pháp nhân thương mại);

8. Không có người phiên dịch, người dịch thuật cho người tham gia tố tụng trong trường hợp họ không sử dụng được tiếng Việt hoặc tài liệu tố tụng không thể hiện bằng tiếng Việt; họ là người câm, người điếc, người mù theo quy định tại Điều 70 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

8. Không từ chối tiến hành, tham gia tố tụng hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong trường hợp quy định tại các điều 49, 51, 52, 53, 54, 68, 69 và 70 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

10. Việc điều tra, thu thập chứng cứ để chứng minh đối với vụ án không đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên không có giá trị chứng minh trong vụ án hình sự;

11. Biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà không chuyển cho Viện kiểm sát theo đúng quy định tại khoản 5 Điều 88 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

13. Chứng cứ để chứng minh đối với vụ án đã được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố nhưng không đưa vào hồ sơ vụ án hoặc bị sửa chữa, thêm bớt dẫn đến sai lệch hồ sơ vụ án;

14. Việc điều tra, truy tố không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật;

15. Có căn cứ để xác định có việc bức cung, nhục hình trong quá trình tiến hành tố tụng làm cho lời khai của bị can không đúng sự thật;

16. Khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ;

17. Những trường hợp khác phải ghi rõ lý do trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, nếu có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng (như đã nêu trên), nhưng không xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng; hoặc người bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi nhưng khi thực hiện hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì họ đã đủ 18 tuổi thì Viện kiểm sát, Tòa án không trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Đối với trường hợp Tòa án huyện đã áp dụng đúng điểm, khoản, điều luật của Bộ luật hình sự nhưng khi quyết định hình phạt lại xử quá nhẹ hoặc cho hưởng án Treo thì không thuộc trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và Tòa phúc thẩm không hủy án trong trường hợp này; tuy nhiên, việc xử phạt quá nhẹ hoặc cho hưởng án Treo không đúng là đã có việc đánh giá và áp dụng không đúng, không đầy đủ các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ cũng như việc cho hưởng án Treo không đúng với các điều kiện do pháp luật quy định nên Tòa phúc thẩm có quyền sửa án sơ thẩm không cho bị cáo hưởng án Treo các trường hợp như: Viện kiểm sát kháng nghị yêu cầu tăng hình phạt hoặc không cho bị cáo hưởng án Treo hoặc vừa kháng nghị yêu cầu tăng hình phạt, vừa không cho bị cáo được hưởng án Treo, nếu có căn cứ thì Tòa phúc thẩm chấp nhận kháng nghị;. Khi người bị hại kháng cáo vừa yêu cầu tăng hình phạt, vừa yêu cầu không cho bị cáo hưởng án Treo, nếu có căn cứ thì Tòa phúc thẩm chấp nhận kháng cáo; nhưng nếu người bị hại chỉ kháng cáo yêu cầu không cho hưởng án Treo thì không phải là kháng cáo tăng hình phạt, không thuộc phạm vi quyền kháng cáo của người bị hại (Điều 51 BLTTHS) nên kháng cáo không hợp pháp, không được chấp nhận.

» Luật sư tư vấn luật hình sự

» Luật sư bào chữa hình sự

Trên đây là các trường hợp vi phạm thủ tục tố tụng nghiêm trọng trong hình sự, nếu cần mời luật sư giải quyết về vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng xin liên hệ: