Khi nào thì được hoãn chấp hành hình phạt tù?

Khi nào thì được hoãn chấp hành hình phạt tù? Hoãn chấp hành hình phạt tù là chuyển việc thi hành hình phạt tù sang thời điểm muộn hơn. Đối với bản án đã có hiệu lực pháp luật thì người bị kết án phải chấp hành nghiêm chỉnh. Trong cuộc sống có nhiều lý do dẫn đến việc người bị phạt tù chưa thể đi thụ hình ngay được. Chính vì vậy, Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã quy định về việc hoãn chấp hành hình phạt tù.

Khi nào thì được hoãn chấp hành hình phạt tù?

1. Các trường hợp được hoãn chấp hành hình phạt tù

Tại khoản 1, Điều 67 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã quy định rõ ràng về hoãn chấp hành hình phạt tù:
 
“(1). Người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong các trường hợp sau đây:
(a) Bị bệnh nặng thì được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục;
(b) Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi;
(c) Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến 01 năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
(d) Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm.”.
 
Về đặc điểm của chế định hoãn chấp hành hình phạt tù.
 
Chế định hoãn chấp hành hình phạt tù có đặc điểm là người bị kết án tù chưa chấp hành hình phạt trước khi có quyết định hoãn của tòa án.
Cụ thể trong 4 trường hợp sau:
 
– Thứ nhất, người bị bệnh nặng được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục Theo quy định của pháp luật người bị bệnh nặng là người được cơ quan chuyên môn bệnh viện từ cấp tỉnh trở lên là mắc một trong các bệnh nguy hiểm đến tính mạng cần phải điều trị kịp thời.
– Thứ hai, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi khi phạm tội lần đầu.
– Thứ ba, là trường hợp người bị kết án là người lao động duy nhất trong gia đình nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến 01 năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
– Thứ 4, là trường hợp bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm.
 
Nếu người bị kết án thuộc một trong các trường hợp trên thì sẽ được Tòa án xem xét việc hoãn chấp hành hình phạt tù. Tuy nhiên, việc có được hoãn chấp hành hình phạt tù hay không là do Tòa án quyết định chứ không phải hiểu rằng người bị kết án sẽ đương nhiên được hoãn chấp hành hình phạt tù khi thuộc 4 trường hợp trên.
 
Về ý nghĩa của chế định hoãn chấp hành hình phạt tù.
 
Việc hoãn chấp hành hình phạt tù thể hiện tính nhân văn, nhân đạo trong việc áp dụng pháp luật vào trong thực tiễn, cũng như mong muốn bảo về quyền con người một cách tối đa, toàn diện nhất đối với người bị kết án cũng như đối với gia đình, người thân của họ.
 
Hoãn chấp hành hình phạt tù là quy định nêu cao quyền con người, thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội khi họ có các điều kiện về nhân thân cần phải được hoãn chấp hành hình phạt tù.
 
Hậu quả của việc thi hành án phạt tù là người bị kết án bị thi hành án tại trại giam, không được tiếp tục lao động, chu cấp kinh tế cho con cái, gia đình trong toàn bộ thời gian chấp hành án, hay ảnh hưởng đến sức khỏe của người bị kết án khi người đó đang mắc bệnh.
 
Như vậy, ít nhiều việc hoãn chấp hành hình phạt tù có tác động rất lớn đối với người bị kết án cũng như đối với gia đình họ.
 
 
Được hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP – Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt:
Về Điều 61 của BLHS (tương ứng với Điều 67 BLHS 2015 trên)

7.1. Người bị xử phạt tù nếu có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng, đồng thời sau khi bị xử phạt tù không có hành vi vi phạm pháp luật nghiệm trọng, không có căn cứ cho rằng họ bỏ trốn và thuộc một trong các trường hợp sau đây thì được hoãn chấp hành hình phạt tù:

a) Là người bị bệnh nặng, tức là bị bệnh đến mức không thể đi chấp hành hình phạt tù được và nếu bắt đi chấp hành hình phạt tù sẽ nguy hiểm đến tính mạng của họ; do đó, cần thiết phải cho họ được hoãn chấp hành hình phạt tù để họ có điều kiện chữa bệnh; ví dụ: ung thư giai đoạn cuối, xơ gan cổ chướng, lao nặng độ 4 kháng thuốc, bại liệt, suy tim độ 3 trở lên, suy thận độ 4 trở lên, HIV chuyển giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội và có tiên lượng xấu… Phải có kết luận của bệnh viện cấp tỉnh trở lên về việc người bị xử phạt tù bị bệnh nặng và nếu bắt họ đi chấp hành hình phạt tù sẽ nguy hiểm đến tính mạng của họ.

b) Là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi (không phân biệt là con đẻ hay con nuôi), nếu họ bị xử phạt tù lần đầu.

c) Là người bị kết tù không phải về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiệm trọng và là người duy nhất trong gia đình đang lao động có thu nhập và nếu bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì gia đình họ sẽ gặp khó khăn đặc biệt trong cuộc sống (như không có nguồn thu nhập nào khác, không có ai chăm nom, nuôi dưỡng… những người thân thích của họ trong gia đình mà không có khả năng lao động).

d) Là người bị kết án về tội ít nghiệm trọng (là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù) và do nhu cầu công vụ, tức là do nhu cầu của cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương cần thiết sự có mặt của họ để thực hiện công vụ nhất định và nếu bắt họ đi chấp hành hình phạt tù ngay thì chưa có người thay thế họ (có xác nhận bằng văn bản của cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương có liên quan đến việc thực hiện công vụ đó).

7.2. Khi người bị xử phạt tù thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại tiểu mục 7.1 mục 7 này, thì toà án cho họ được hoãn chấp hành hình phạt tù. Toà án cũng có thể cho người bị xử phạt tù thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 61 của BLHS mà không thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại tiểu mục 7.1 mục 7 này được hoãn chấp hành hình phạt tù, nhưng phải xem xét rất chặt chẽ.

Ví dụ: Nguyễn Thị B bị xử phạt ba năm tù về tội mua bán trái phép chất ma tuý, B bị xử phạt tù lần này là lần đầu, đang nuôi con nhỏ mới 12 tháng tuổi và đang tại ngoại. Theo đề nghị của B, Chánh án đã ra quyết định thi hành án ra quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù đối với B cho đến khi con của B đủ 36 tháng tuổi. Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù B lại phạm tội trộm cắp tài sản và bị xử phạt hai năm tù; tổng hợp hình phạt của hai bản án buộc B phải chấp hành hình phạt chung là năm năm tù. Chánh án Toà án có thẩm quyền đã ra quyết định thi hành án. B có đơn đề nghị xin được hoãn thi hành án. Trường hợp này phải xem xét rất chặt chẽ. Giả sử con của B đã được 24 tháng tuổi, B có chồng chăm sóc con thì không cho B hoãn chấp hành hình phạt tù. Giả sử con của B đã được 24 tháng tuổi, nhưng hay ốm đau, nay B lại đang có thai, thì tuy B có chồng, nhưng vẫn có thể cho B hoãn chấp hành hình phạt tù.

7.3. Thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù

a) Người bị xử phạt tù bị bệnh nặng được hoãn chấp hành hình phạt tù một lần hoặc nhiều lần cho đến khi sức khỏe hồi phục.

b) Người bị xử phạt là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi.

Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù mà người bị kết án lại có thai hoặc phải tiếp tục nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì vẫn được hoãn cho đến khi đứa con sau cùng đủ 36 tháng tuổi.

c) Người bị xử phạt tù là người lao động duy nhất trong gia đình hoặc do nhu cầu công vụ được hoãn một lần hoặc nhiều lần, nhưng tổng số thời gian được hoãn tối đa là một năm.

» Thủ tục hoãn thi hành hình phạt