Hiệp định Thương mại tự do VN và Liên minh kinh tế Á – Âu

Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh kinh tế Á – Âu ( EEUV –FTA)
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ Tướng 5 nước thành viên Liên minh kinh tế Á – Âu, lãnh đạo ban thường trực liên minh kinh tế Á- Âu tại lễ ký kết Hiệp định thương mại tự d. Ảnh : VGP/Nhật Bắc.

Ngày 29/5/2015, Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á-Âu (EAEU – bao gồm các nước Liên bang Nga, Cộng hòa Belarus, Cộng hòa Kazakhstan, Cộng hòa Armenia và Cộng hòa Kyrgyzstan) đã chính thức ký kết FTA Việt Nam – EAEU.

Đây là Hiệp định có ý nghĩa chiến lược mở ra trang mới trong quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và liên minh kinh tế Á – Âu nói chung với từng nước thành viên nói riêng. Sau khoảng 2 năm đàm phán và sau khi hoàn tất các thủ tục phê duyệt nội bộ, các bên đã ký kết Hiệp định với phạm vi toàn diện, mực độ cam kết cao và đảm bảo cân bằng lợi ích, có tính điều kiện cụ thể của từng bên.

Hiệp định bao gồm các chương trình về thương mại hóa, quy tắc xuất xứ, phòng vệ thương mại, thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật(SPS), quy tăc xuất xứ, thuận lợi hóa hải quan, phòng vệ thương mại, hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT), công nghệ điện tử trong thương mại, cạnh tranh pháp lý và thể chế.

Về hàng hóa, liên minh kinh tế Á – ÂU, Liên minh đã dành cho Việt Nam nhiều ưu đãi, tạo nhiều cơ hội xuất khẩu quan trọng đối với các nhóm hàng hóa Việt Nam có lợi ích cơ bản như nông sản và hàng công nghiệp như dệt may, da giày, đồ gỗ và một số các sản phẩm chế biến.
Nội dung quan trọng là phía Liên minh sẽ áp dụng mức thuế suất 0% cho tất cả các mặt hàng thủy sản của Việt Nam ngay khi Hiệp định có hiệu lực.

Cùng với việc xóa bỏ các thuế quan, hai bên sẽ triển khai tích cực chương trình về SPS , trong đó các nội dung về công nhận tương đối với các biện pháp hoặc hệ thống quản lý trong lĩnh vực liên quan, công nhận lẫn nhau về các khái niệm về thích ứng với điều kiện khu vực, sử dụng kết quả kiểm toán, thông tin của các tổ chức quốc tế lớn; thúc đẩy hợp tác, triển khai các sáng kiến thuận lợi hóa thương mại và hỗ trợ kỹ thuật, thiết lập cơ chế tham vấn hiệu quả giưa hai bên.

Phía Việt Nam đồng ý mở cửa thị trường có lộ trình cho liên minh đối với một số sản phẩm chăn nuôi, một số mặt hàng công nghiệp gồm máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải… Các mặt hàng này nhìn chung đêu không cạnh tranh với hàng hóa Việt Nam mà ngược lại góp phần làm đa dạng hóa thêm thị trường tiêu dùng trong nước.

Riêng đối với các mặt hàng nông sản, tuy là các mặt hàng được phía Liên minh coi thuộc diện ưu tiên và đã được Việt Nam đồng ý mở của ngay, chẳng hạn như sữa và các sản phẩm sữa, một số sản phẩm ngũ côc.., nhưng trong bối cảnh hiện nay, do sản xuất nông nghiệp của phía Liên minh chủ yếu phục vụ cho nhu cầu nội địa và chưa tập chung cho cuất khẩu nên dự báo trong 5 năm đầu thực thi Hiệp định, ngành nông nghiệp Việt Nam sẽ không bị tác động rõ rệt bởi việc nhập khẩu mặt hàng nông sản từ Liên minh.

Về tổng thể, hai bên sẽ dành cho nhau mức mở cửa thị trường hàng hóa chiếm khoảng 90% số dòng thuế, tương đương vào khoảng trên 90% kim nghạch thương mại song phương. Đây là tỷ lệ tương quan đối với một số Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết với các đối tác khác. Theo đánh giá bước đầu của Liên minh, sau khi Hiệp định có hiệu lực, kim nghạch xuất nhập khẩu hai bên sẽ đạt 10-12 tỷ USD vào năm 2020 (năm 2014 đạt khoảng 4 tỷ USD). Theo ước tính của Việt Nam, kim nghạch xuất nhâp khẩu của Việt Nam sang liên minh sẽ tăng khoảng 18-20% hàng năm.

Tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam đừng quan niệm rằng, thị trường Liên minh kinh tế Á- Âu là một thị trường dễ tính. Đối với nhiều quốc gia trong liên minh, trong đó có Liên Bang Nga, có yêu cầu không kém gì một số nước phát triển về tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa liên quan đến sức khỏe con người.

Đây là điều doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm, nhất là đối với những mặt hàng nông sản như: cà phê, chè và một số mặt hàng nông sản khác. Ngoài ra, khoảng cách cũng là một rào cản tương đối lớn, nếu không có biện pháp phù hợp thì chi phí về vận tải sẽ làm tăng giá sản phẩm,gây bất lợi cho hàng hóa của Việt Nam. Đối với một số thị trường của các nước thành viên có quy mô tương đối nhỏ như Armenia, Kyrgyzstan.. Thường có ít thông tin. Vì vậy, bên cạnh việc xuất khẩu, tìm kiếm cơ hội đầu tư thì việc nắm thông tin, khảo sát thị trường, và kể cả việc tìm hiểu thị hiếu tiêu dùng ở những nước đó rất quan trọng.

Đây là một Hiệp định mở ra rất nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam, mang tính bao quát, chất lượng cao và bao gồm hầu như toàn bộ các lĩnh vực thương mại đầu tư, từ dịch vụ hoàng hóa cho đến dịch vụ đầu tư, thương mại tài chính ngân hàng, dịch vụ khoa học công nghệ, lĩnh vực thương mại điện tử..Nếu chúng ta khai khác, tận dụng được cơ hội này thì hợp tác thương mại đầu tư của Việt Nam với các nước khác của liên minh kinh tế Á – Âu sẽ có quy mô lớn hơn và chất lượng cao hơn trong thời gian tới.

» Tin tức pháp luật