Địa vị pháp lý của luật sư bào chữa

Địa vị pháp lý của luật sư bào chữa. người bào chữa trong tố tụng hình sự
Luật sư bào chữa có vai trò rất quan trọng trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự (TTHS).

1. Địa vị pháp lý của luật sư – người bào chữa trong tố tụng hình sự

Khi tham gia với tư cách là người bào chữa trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, luật sư là người tham gia tố tụng độc lập nhưng chỉ là độc lập tương đối. Tính độc lập tương đối thể hiện ở chỗ, mặc dù luật sư được tự mình thực hiện các hoạt động tố tụng cần thiết như thực hiện các hoạt động nhằm thu thập chứng cứ, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật; luật sư có quyền trình bày quan điểm của mình mà không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của bị cáo, có quyền kháng cáo, khiếu nại các bản án, quyết định, hành vi tố tụng và trong mọi trường hợp, luật sư chỉ căn cứ vào các quy định của pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích của bị cáo; luật sư không có nghĩa vụ phải bào chữa theo yêu cầu của bị cáo nếu những yêu cầu đó là không có căn cứ, trái pháp luật…

2. Quyền và nghĩa vụ của luật sư

– Quyền của luật sư:
Người bào chữa trong tố tụng hình sự Quyền của luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa trong TTHS được quy định tập trung tại các Điều 56, 58 Bộ luật tố tụng hình sự(BLTTHS) năm 2003, ngoài ra, còn được quy định rải rác tại các điều khoản khác trong BLTTHS.

Luật sư có quyền tham gia tố tụng để bào chữa từ khi khởi tố bị can hoặc từ khi có quyết định tạm giữ trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang, người đang bị truy nã, bắt người trong trường hợp khẩn cấp; trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì luật sư có thể tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. Luật sư có thể tham gia theo đề nghị của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của họ hoặc tham gia theo yêu cầu của cơ quan THTT.

Luật sư có thể bào chữa cho nhiều người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong cùng một vụ án, nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau; nhiều luật sư có thể cùng bào chữa cho một người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

Luật sư có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu ĐTV đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; được xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; có quyền đề nghị thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch trong trường hợp có căn cứ cho rằng họ không khách quan trong khi thực hiện nhiệm vụ; có quyền thu thập tài liệu, đồ vật có liên quan đến việc bào chữa; quyền đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ; quyền gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền THTT.

Như vậy, với việc quy định các quyền nêu trên cho luật sư, pháp luật TTHS đã ghi nhận một cách chính thức các đảm bảo để người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình, đồng thời tạo hành lang pháp lý để luật sư thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của mình trong quá trình tham gia bào chữa.

– Nghĩa vụ của luật sư:
Bên cạnh việc quy định các quyền của luật sư khi tham gia bào chữa, pháp luật cũng quy định cho họ phải có những nghĩa vụ nhất định. Luật sư có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị can, bị cáo. Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì luật sư có trách nhiệm giao cho.Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Luật sư có nghĩa vụ giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Luật sư không được từ chối bào chữacho những người mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng; có nghĩa vụ tôn trọng sự thật và pháp luật, không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa, không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân…

Theo repository.law.vnu.edu.vn

» Địa vị pháp lý của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự

» Tư vấn luật hình sự