Chủ đất cũ khởi kiện đòi quyền sử dụng đất qua các lần cải tạo đất đai có được không?

Chủ đất cũ khởi kiện đòi quyền sử dụng đất qua các lần cải tạo đất đai có được không? Theo công văn số 169/2002/KHXX ngày 15/12/2002 của TANDTC. Tòa Án Nhân Dân Tối cao hướng dẫn đường lối giải quyết các khiếu kiện, các tranh chấp đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng theo đó:

Chủ đất cũ có khởi kiện đòi quyền sử dụng đất qua các lần cải tạo đất đai không?

– Cơ quan có thẩm quyền đã quyết định hoặc bằng văn bản về thu hồi đất, hoặc giao đất cho người khác sử dụng khi thực hiện chính sách cải tạo của Nhà nước; Theo nguyên tắc Nhà nước không công nhận việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước. Tòa án căn cứ vào Điều 1 Luật Đất đai năm 1987, khoản 2 Điều 2 Luật Đất đai năm 1993 và khoản 2 Điều 10 Luật Đất đai năm 2003, Bộ Luật Dân sự, Điều 25, Điều 168, khoản 2 Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự để xử lý:

a- Đối với trường hợp khiếu nại đương sự cho rằng họ bị cải tạo sai, thì đây không phải là tranh chấp dân sự, không thuộc thẩm quyền của tòa dân sự mà thuộc thẩm quyền của UBND.

b- Nếu đương sự khởi kiện yêu cầu tòa án hủy việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì việc khởi kiện này thuộc của cơ quan hành chính, tòa án hành chính giải quyết.

c- Đối với trường hợp đất tranh chấp cả hai bên đều không kê khai, không đứng tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính và không có bất cứ giấy tờ nào khác theo qui định tại khoản 1, 2, 5 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003, thì tranh chấp đó thuộc thẩm quyền của UBND.

d- Đối với trường hợp chủ đất cũ hoặc các thừa kế của họ xuất trình một trong các loại giấy tờ được qui định tại khoản 1, 2, 5 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 để kiện đòi lại đất; nếu có tài liệu chứng minh rằng có văn bản, quyết định thu hồi đất, giao đất cho người khác sử dụng theo chính sách cải tạo Nhà nước, thì tòa án không nhận đơn thụ lý chiếu theo điểm e Điều 168 Bộ Luật Tố tụng Dân sự trả lại đơn khởi kiện cho đương sự.

e- Đối với trừơng hợp đất đã được đưa vào tập đoàn sản xuất, hợp tác xã, mà sau đó các tổ chức này giải thể thì được giải quyết tranh chấp theo qui định tại tiểu mục 2.4 mục 2 phần II Nghị quyết số 02/2004-NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao ngày 10- 08- 2004, theo đó đất được cá nhân, tổ chức đưa vào tập đoàn sản xuất, hợp tác xã trong quá trình thực hiện chính sách hợp tác hóa nông nghiệp và các tổ chức này đã giao đất đó cho người khác sử dụng, thì tòa án căn cứ vào Điều 1 Luật Đất đai năm 1987, khoản 2 Điều 2 Luật đất đai năm 1993 và khoản 2 Điều 10 Luật đất đai năm 2003 và Bộ Luật Dân sự xử lý và giải quyết theo qui định của pháp luật. Còn chủ đất cũ hoặc người thừa kế không kê khai, không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì tòa án không nhận đơn khởi kiện, nếu đã thụ lý thì bác yêu cầu đòi lại đất của chủ cũ.

II. Các tranh chấp về quyền sử dụng đất đối tượng khác

Các tranh chấp về đất đai rất đa dạng, có nhiều nguyên nhân khác nhau, mà một bên đang sử dụng bằng việc thông qua cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, công nhiên sử dụng đất, được sử dụng trước khi có Hiến pháp năm 1992 và Luật đất đai năm 1993, theo các văn bản này, thì có giai đoạn Nhà nước cấm công dân mua, bán, cho thuê, lấn, chiếm đất, phát canh, thu tô dưới mọi hình thức. Do đó các giao dịch mua, bán, cho thuê, cầm cố đất ở vào thời điểm này theo nguyên tắc đều bị coi là vô hiệu; cũng như giai đoạn trước năm 1980 và sau năm 1980, Nhà nước đã có nhiều văn bản ghi rõ người có đất không sử dụng 6 tháng liền mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất đó  cho phép thì Nhà nước có thể thu hồi một phần hay toàn phần, chiếu theo khoản 5 Điều 14 Luật Đất đai năm 1987.

Vì vậy, đất đã được một bên sử dụng trước hoặc trong thời gian của Luật Đất đai năm 1987 có hiệu lực và một thời gian dài không có tranh chấp, nếu chủ đất cũ đòi lại, thì cơ quan có thẩm quyền hoặc tòa án phải xem xét đến quyền lợi của người lao động đã trực tiếp quản lý, canh tác, sử dụng đất liên tục trong thời gian dài, đã thực hiện đầy đủ và đúng các chính sách pháp luật về đất đai. Mặt khác còn phải nghiên cứu vận dụng xác lập quyền sử dụng được qui định tại Điều 247 Bộ Luật Dân sự năm 2005 (trừ trường hợp chủ đất cũ gặp tình huống bất khả kháng).

Nói cho rõ hơn, trường hợp chủ đất cũ không kê khai, không đứng tên trong sổ đăng ký đất hoặc sổ địa chính, không thực hiện quyền quản lý, sử dụng của chủ sử dụng đất; còn người đang sử dụng đất đã kê khai, đăng ký đứng tên trong sổ bộ ruộng đất hoặc sổ địa chính; được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có căn cứ pháp luật, thực hiện đúng qui định của Luật đất đai năm 1987, năm 1993, năm 2003 và các văn bản pháp luật có liên quan thì nay chủ đất cũ không thể đòi lại quyền sử dụng đất đó.

Còn trường hợp, nếu cả hai bên (chủ đất cũ và người đang sử dụng đất) đều được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai năm 1987 hoặc Luật Đất đai năm 1993 (cấp trùng nhau); nếu có tranh chấp quyền sử dụng đất thì cần phải có bằng chứng về thời gian sử dụng đất, thủ tục kê khai sử dụng đất trước hay sau của hai bên và căn cứ pháp lý để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như thế nào của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền? Tòa án phải thu thập chứng cứ để công nhận quyền sử dụng đất cho bên được cấp chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp theo đúng qui định của Luật Đất đai.

Hiện nay Điều 106 Luật Đất đai năm 2003, người sử dụng có 10 quyền là: Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.

Bộ Luật Dân sự năm 2005 cũng qui định bảo vệ quyền sở hữu (kể cả quyền sử dụng đất) như là: Điều 255 qui định các  biện pháp bảo vệ quyền sở hữu; Điều 256 qui định quyền đòi lại tài sản; Điều 257 qui định quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình; Điều 258 qui định quyền đòi lại động sản phải đăng ký  quyền sử dụng hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình; Điều 259 qui định quyền yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp; Điều 260 qui định quyền bồi thường thiệt hại.

Như vậy Luật Đất đai năm 2003 qui định 10 quyền của người sử dụng đất, việc bảo vệ các quyền của người sử dụng hợp pháp cũng được pháp luật bảo vệ giống như việc Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu của công dân, pháp nhân và các tổ chức xã hội khác…

» Công văn số 169/2002/KHXX ngày 15/12/2002 của TANDTC

» Các căn cứ pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai, khiếu nại đòi lại đất