Tìm hiểu về xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Xét hỏi tại phiên toà là một phần của xét xử tại phiên toà, trong đó Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng tiến hành việc nghiên cứu và kiểm tra các chứng cứ, kết luận điều tra, bản cáo trạng một cách công khai về những tình tiết của vụ án.
Mục lục bài viết
Trong giai đoạn xét hỏi tại phiên toà, Hội đồng xét xử sơ thẩm phải trực tiếp nghiên cứu các chứng cứ của vụ án như: xét hỏi bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, nghe kết luận của người giám định, xem xét xác vật chứng, đọc biên bản, công bố lời khai, công bố các tài liệu, xem xét tại chỗ…
Chủ toạ phiên toà là người điều khiển việc xét hỏi, áp dụng các biện pháp được Bộ luật tố tụng hình sự quy định để nghiên cứu các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, nhằm xác định sự thật của vụ án, đồng thời loại bỏ những tình tiết không liên quan đến vụ án. Hội đồng xét xử chỉ được lấy những chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà để làm căn cứ khi ra bản án.
Xét hỏi là giai đoạn trung tâm của hoạt động xét xử và cũng là giai đoạn quan trọng nhất để xác định sự thật vụ án, có thể những câu hỏi và những câu trả lời tại phiên toà không khác với những câu hỏi và câu trả lời ở giai đoạn điều tra, nhưng nó có một ý nghĩa vô cùng quan trọng ở chỗ: Việc hỏi và trả lời được diễn ra công khai, nó là hình thức kiểm nghiệm kết quả điều tra của Cơ quan điều tra. Ngoài việc xét hỏi, Hội đồng xét xử còn xem xét vật chứng, xem xét hiện trường xảy ra vụ án và những nơi khác, công bố các tại liệu v.v… Tuy nhiên, hoạt động xét hỏi nói chung và xét hỏi bị cáo, người bị hại, người làm chứng là hoạt động thể hiện tính công khai, minh bạch của Tòa án trong hoạt động xét xử.
Theo quy định tại Điều 306 BLTTHS, thì trước khi tiến hành xét hỏi Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng và trình bày những ý kiến bổ sung, nếu có. Ý kiến bổ sung không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo.
BLTTHS 2015 quy định Kiểm sát viên giữ quyền công tố đọc bản cáo trạng tại Mục V Chương XXI (thủ tục tranh tụng tại phiên toà) là phù hợp hơn quy định của BLTTHS 2003, vì muốn tranh tụng tại phiên tòa thì trước hết Kiểm sát viên phải đọc bản cáo trạng truy tố bị cáo phạm tội gì, quy định tại khoản nào điều nào của BLHS. Trên cơ sở bản cáo trạng mà Kiểm sát viên công bố thì bị cáo và những người tham gia tố tụng tố tụng mới có thể thực hiện việc tranh tụng với Kiểm sát viên hoặc tranh tụng với nhau về các tình tiết của vụ án.
BLTTHS 2015 cũng quy định: “Kiểm sát viên có thể bổ sung bản cáo trạng nhưng ý kiến bổ sung không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo” cũng là một quy định tiến bộ, mà không phải luật tố tụng của nước nào cũng quy định như vậy.
Yêu cầu của việc đọc bản cáo trạng đối với Kiểm sát viên là phải đọc nguyên văn bản cáo trạng đã được tống đạt cho bị cáo. Trường hợp sau khi đã tống đạt bản cáo trạng cho bị cáo mà còn có những quyết định khác mà quyết định này chưa được tống đạt cho bị cáo thì sau khi đọc xong bản cáo trạng Kiểm sát viên mới trình bày những ý kiến bổ sung và cũng chỉ bổ sung những tình tiết không làm xấu đi tình trạng của bị cáo.
Thực tiễn xét xử không ít trường hợp, bản cáo trạng bị cáo nhận được với bản cáo trạng mà Kiểm sát viên đọc tại phiên toà khác nhau về nội dung, thậm chí khác nhau rất cơ bản. Ví dụ: Bản cáo trạng tống đạt cho bị cáo, Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo Điều 134 BLHS nhưng bản cáo trạng do Kiểm sát viên đọc tại phiên toà lại truy tố bị cáo về tội “Giết người” theo Điều 123 BLHS. Kiểm tra mới biết, sau khi tống đạt cáo trạng cho bị cáo và chuyển hồ sơ cho Toà án để chuẩn bị xét xử, trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán chủ toạ phiên toà đã quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để truy tố lại bị cáo về tội giết người, Viện kiểm sát cũng đồng ý với quan điểm của Toà án nên đã thay đổi cáo trạng, nhưng “quên” không tống đạt lại bản cáo trạng đã bị thay đổi cho bị cáo.
Trong trường hợp này coi như bị cáo chưa được tống đạt bản cáo trạng và nếu bị cáo yêu cầu thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà. Vì vậy, sau khi Kiểm sát viên đọc xong bản cáo trạng chủ toạ phiên toà phải hổi bị cáo: “Bản cáo trạng mà Kiểm sát viên đọc tại phiên toà có đúng với bản cáo trạng mà bị cáo được tống đạt không?” Nếu bản cáo trạng mà Kiểm sát viên đọc tại phiên toà khác với bản cáo trạng mà bị cáo nhận được, và sự khác biệt đó là cơ bản có liên quan đến quyền bào chữa của bị cáo nhưng bị cáo chưa chuẩn bị những chứng cứ gỡ tội về những cáo buộc của Viện kiểm sát trong bản cáo trạng mới và bị cáo yêu cầu, thì phải hoãn phiên toà.
Trong trường hợp này, chủ toạ phiên toà có thể hỏi bị cáo có cần pbải có thời gian nghiên cứu và chuẩn bị bào chữa hoặc nhờ người bào chữa không, nếu bị cáo đồng ý vẫn tiếp tục phiên toà thì Hội đồng xét xử có thể không phải hoãn phiên toà. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, Điều 306 BLTTHS quy định Kiểm sát viên có quyền trình bày những ý kiến bổ sung sau khi đọc bản cáo trạng, dù những ý kiến đó là không làm xấu đi tình trạng của bị cáo là không phù hợp, vì bất kỳ sự bổ sung nào vào bản cáo trạng trước khi bắt đầu phiên toà đều phải được giao cho bị cáo và nếu Viện kiểm sát không giao cho bị cáo thì nhất thiết phải hoãn phiên toà.
Sau khi Kiểm sát viên đọc xong bản cáo trạng, việc xét hỏi bắt đầu được tiễn hành.
Theo quy định tại Điều 307 BLTTHS, thì Hội đồng xử phải xác định đầy đủ những tình tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng người. Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý. Quy định này được hiểu là sau khi chủ tọa phiên tòa hỏi thì việc quyết định cho ai hỏi trước, hỏi sau là do chủ tọa phiên tòa quyết định, chứ không phải quy định chủ tọa phiên tòa chỉ điều khiển việc xét hỏi, mà không tham gia xét hỏi. Thực tiễn đã có trường hợp bản án của Tòa án bị kháng nghị giám đốc thẩm, chỉ vì chủ tọa phiên tòa không tham gia xét hỏi mà chỉ điều khiển để người khác xét hỏi, rồi kết luận việc xét hỏi tại phiên tòa. Việc chủ tọa không tham gia xét hỏi được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi. Người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định, người định giá tài sản được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định, định giá tài sản. Khi xét hỏi, Hội đồng xét xử xem xét vật chứng có liên quan trong vụ án. Đây là quy định có tính hướng dẫn là chủ yếu, vì thực tiễn xét xử việc xét hỏi hay dở còn tuỳ thuộc vào năng lực của chủ toạ phiên toà và các thành viên của Hội đồng xét xử, hỏi ai trước, hỏi việc gì trước là hoàn toàn do chủ toạ phiên toà quyết định căn cứ vào kết quả điều tra cũng như thái độ khai báo của từng bị cáo. Có người hỏi bị cáo trước, có người lại hỏi người bị hại trước, lại có người hỏi người làm chứng trước. Để bảo đảm việc xét hỏi tại phiên toà đạt kết quả, nhất là những vụ án có nhiều bị cáo, phạm nhiều tội khác nhau, kinh nghiệm xét xử cho thấy, chủ toạ phiên toà thường chuẩn bị một đề cương xét hỏi. Dựa vào đề cương để xét hỏi nhằm xác định hành vi phạm tội của từng bị cáo, của từng tội mà bị cáo bị truy tố. Vì vậy, nhiều ý kiến cho rằng Bộ luật tố tụng hình sự nên quy định việc xét hỏi tại phiên tòa theo một thứ tự hợp lý để xác định sự thật của vụ án với các tình tiết mà Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đã thu thập trong giả đoạn điều tra, truy tố, miễn là xác định đầy đủ những tình tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng bị cáo là được.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 307 BLTTDS, thì khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi. Quy định này được hiểu là, chỉ quy định bắt buộc chủ tọa phiên tòa phải hỏi trước, còn những người khác do chủ tọa quyết định theo một thứ tự hợp lý chứ không phải sau khi chủ tọa phiên tòa hỏi thì đến Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Ví dụ: Sau khi chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo, chủ tọa phiên tòa có thể yêu cầu người bào chữa hỏi bị cáo, rồi mới đến Hội thẩm và những người khác.
Dù hỏi trước hay hỏi sau, thì tại phiên tòa những người được hỏi chỉ có: Chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm, Kiểm sát viên giữ quyền công tố, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người giám định và người định giá tài sản. Tuy nhiên, người giám định chỉ được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định, còn người định giá tài sản chỉ được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc định giá tài sản.
Đối với những người khác tham gia phiên toà, trừ bị cáo thì họ chỉ được đề nghị chủ toạ phiên toà hỏi thêm, tức là người hỏi vẫn là chủ toạ phiên toà chứ không phải người tham gia phiên toà. Ví dụ: Người bị hại đề nghị chủ toạ phiên toà hỏi thêm bị cáo về việc bị cáo bán tài sản đã trộm cắp được cho ai ở đâu? Nếu chủ tọa phiên toà chấp nhận yêu cầu của người bị hại thì chủ toạ đặt câu hỏi đối với bị cáo về nội dung yêu cầu mà người bị hại đưa ra, chứ người bị hại không trực tiếp đặt câu hỏi với bị cáo. Tuy nhiên, khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, thì “bị cáo được đặt câu hỏi với bị cáo khác về các vấn đề có liên quan đến mình”. Đây là điểm mới mà trước đây BLTTHS chưa quy định nhằm bảo đảm tính chất tranh tụng tại phiên tòa do thực tiễn xét xử đặt ra. Phải nói rằng, quy định cho bị cáo được đặt câu hỏi với bị cáo khác về các vấn đề có liên quan đến mình là một quy định tiến bộ, phù hợp với thực tiễn xét xử và tinh thần cách tư pháp theo Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị. Tuy nhiên, như thế là chưa đủ, mà BLTTHS cần quy định cho tất cả những người tham gia tố tụng có quyền đặt câu hỏi với người tham gia tố tụng khác, thì mới thật sự thể hiện tinh thần tranh tụng tại phiên tòa.
Thực tiễn xét xử còn cho thấy nhiều vụ án việc quy định cho người tham gia tố tụng hỏi lẫn nhau như đối với bị cáo đặt câu hỏi với bị cáo khác, mà không làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật của vụ án như: bị cáo có quyền đặt câu hỏi với bị hại hoặc người đại diện của bị hại; bị cáo đặt câu hỏi với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người làm chứng, thậm chí đối với Điều tra viên, và ngược lại v.v… Với tinh thần cải cách tư pháp, thì tại phiên tòa để thể hiện đúng tinh thần tranh tụng thì BLTTHS nên quy định để bị cáo và những người tham gia tố tụng đặt câu hỏi lẫn nhau.
Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Tư cách bị cáo kể từ thời điểm Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì bị can trở thành bị cáo.
Theo quy định hiện hành, thì khi hỏi bị cáo, Hội đồng xét xử phải hỏi riêng từng bị cáo. Nếu lời khai của bị cáo này có thể ảnh hưởng đến lời khai của bị cáo khác thì chủ toạ phiên toà phải cách ly họ. Bị cáo bị cách ly được thông báo lại nội dung lời khai của bị cáo trước và có quyền đặt câu hỏi với bị cáo đó (khoản 1 Điều 309 BLTTHS).
Theo quy định tại khoản 2 Điều 309 BLTTHS, thì trước khi hỏi bị cáo, chủ toạ phiên toà phải để bị cáo trình bày ý kiến của họ về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án, sau đó Hội đồng xét xử mới hỏi thêm về những điểm mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ hoặc còn mâu thuẫn. Quy định là như vậy, nhưng thực tiễn xét xử rất ít khi chủ toạ phiên toà để bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án, vì sợ rằng làm như vậy sẽ mất thời gian, có bị cáo cầm bản cáo trạng trong tay đọc từng đoạn rồi có ý kiến về những tình tiết mà bản cáo trạng nêu, có khi mất cả giờ đồng hồ, nếu cứ để bị cáo trình bày theo ý của họ thì có khi cả buổi cũng không xong. Do đó, các Toà án thường đặt câu hỏi ngay đối với bị cáo khi bắt đầu việc xét hỏi, nếu có bị cáo nào muốn trình bày quan điểm của mình về bản cáo trạng thì thường được chủ toạ phiên toà giải thích rằng: “bị cáo trả lời thẳng vào câu hỏi của toà, còn những vấn đề cần trình bày sẽ được trình bày trong phần tranh luận”.
Để bảo đảm đúng quy định của pháp luật và không ảnh hưởng đến thời gian xét xử, chủ toạ phiên toà chỉ để bị cáo trình bày về những vấn đề cơ bản như: tội danh, điều luật mà Viện kiểm sát truy tố hoặc bị cáo đồng ý hay không đồng ý với kết luận của bản cáo trạng, còn các tình tiết cụ thể của bản cáo trạng bị cáo có thể trình bày khi trả lời những câu hỏi của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền lợi của đương sự.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 309 BLTTHS, thì Kiểm sát viên hỏi về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội bị cáo và những tình tiết khác của vụ án. Nếu chỉ quy định cho Kiểm sát viên hỏi về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội bị cáo và những tình tiết khác của vụ án là chưa thể hiện tinh thần cải cách tư pháp, mà BLTTHS nên quy định Kiểm sát viên hỏi bị cáo về những cáo buộc đã được thể hiện trong bản cáo trạng, vì tại phiên tòa Kiểm sát viên có nhiệm vụ bảo vệ cáo trạng nên Kiểm sát viên cần hỏi kỹ bị cáo về các tình tiết của vụ án. Chủ tọa phiên tòa chỉ hỏi bị cáo về những nội dung cơ bản, mà bị cáo trình bày chưa hết, chưa rõ.
Người bào chữa hỏi bị cáo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc bào chữa cho bị cáo mà mình bảo vệ. Việc người bào chữa hỏi bị cáo là nhằm gỡ tội cho bị cáo nên các tình tiết buộc tội bị cáo người bào chữa không nên hỏi bị cáo vì như vậy không chỉ vi phạm Luật Luật sư và Quy chế của Liên đoàn Luật sư mà sẽ dẫn đến sự phản cảm. Tuy nhiên, người bảo vệ quyền lợi của bị hại thì lại nên hỏi bị cáo về những tình tiết buộc tội hoặc các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Ví dụ: Trong vụ án dâm ô người dưới 16 tuổi, người bào chữa có thể hỏi bị cáo về nhận thức của bị cáo đối với các hành vi hôn vào cơ thể bị hại, còn người bảo vệ quyền lợi của bị hại có thể hỏi bị cáo những câu hỏi có tính chất buộc tội bị cáo.
Nếu vụ án có người bào chữa bảo vệ cho bị cáo và người bảo vệ quyền lợi của bị hại thì chủ tọa phiên tòa nên dành nhiều thời gian để người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi của bị hại hỏi bị cáo về các tình tiết buộc tội và gỡ tội. Chủ tọa phiên tòa chỉ điều khiển việc xét hỏi của người bào chữa với người bảo vệ quyền lợi của bị hại để phiên tòa thể hiện rõ tính chất tranh tụng giưa bên buộc tội và bên gỡ tội.
Nếu vụ án có nhiều bị cáo đều bị truy tố về một tội, thì chủ tọa phiên tòa cần hỏi các tình tiết về hành vi phạm tội của từng bị cáo, đồng thời xét hỏi để xác định vụ án có đồng phạm không? Nếu có đồng phạm thì có thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức không? Nếu vụ án có đồng phạm và phạm tội có tổ chức thì cần hỏi về vai trò của từng bị cáo, nhất là đối với người tổ chức, người thực hành; đối với người giúp sức thì cần hỏi các tình tiết liên quan đến hành vi giúp sức có đáng kể không để làm căn cứ quyết định hình phạt và áp dụng Điều 54 BLHS; trong số những người giúp sức, có người nào không phải là đồng phạm, mà chỉ là hành vi che giấu hoặc không tố giác tội phạm. Ví dụ: Trong vụ án trộm cắp tài sản có tổ chức, người bị truy tố là đồng phạm vì có hành vi hứa hẹn trước với người tổ chức hoặc người thực hành, thì hành vi hứa hẹn trước đó thể hiện như thế nào.
Nếu vụ án có nhiều bị cáo bị truy tố về các tội khác nhau, thì chủ tọa phiên tòa cần điều khiển việc hỏi bị cáo từng tội riêng biệt như đối với vụ án chỉ có một bị cáo.
Thực tiễn xét xử đối với vụ án có nhiều bị cáo bị truy tố về một tội hoặc về nhiều tội khác nhau nhưng chủ tọa phiên tòa tiến hành hỏi hết các bị cáo, hỏi hết các tội bị truy tố, rồi mới để người bào chữa hỏi bị cáo, còn người bị hại chỉ được hỏi sau cùng. Cách xét hỏi này tuy tiết kiệm thời gian xét xử nhưng lại không bảo đảm tính hệ thống, liên tục. Nhiều trường hợp bị hại hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án muốn đối đáp với bị cáo hoặc muốn đặt câu hỏi với người khác cũng khó được chủ tọa chấp nhận, vì lý do thời gian.
Đối với vụ án bị cáo tham gia tố tụng với nhiều tư cách khác nhau như: vừa là bị cáo, vừa là bị hại, vừa là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, vừa là người làm chứng, thì việc xét hỏi tương đối phức tạp. Chủ tọa phiên tòa phải điều hành việc xét hỏi phù hợp với tư cách của bị cáo. Ví dụ: Trong vụ án cố ý gây thương tích giữa hai tốp thanh niên đánh nhau. Hậu quả cả hai bên đều bị thương tích, thì chủ tọa phiên tòa nên hỏi các bị cáo với tư cách là bị cáo trước, sau đó mới tiến hành xét hỏi các bị cáo với tư cách bị hại.
Đối với bị cáo có lời khai tại phiên tòa mâu thuẫn với lời khai tại Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, hoặc bị cáo thực hiện quyền im lặng tại phiên tòa, thì chủ tọa phiên tòa công bố các lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, đồng thời hỏi bị cáo vì sao có sự mâu thuẫn đó. Nếu bị cáo không trả lời thì yêu cầu thư ký phiên tòa ghi vào biên bản phiên tòa.
Trong quá trình xét hỏi bị cáo, Hội đồng xét xử có thể kết hợp hỏi những người tham gia tố tụng khác hoặc bị cáo khác để làm rõ hành vi của bị cáo đang được hỏi, thứ tự xét hỏi bị cáo cũng theo thứ tự như quy định tại Điều 307 Bộ luật tố tụng hình sự, nhưng không nhất thiết người này hỏi xong mới tới người khác mà có thể phối hợp khi xét hỏi, chỉ cần chủ toạ hỏi trước, sau khi những người khác hỏi, chủ toạ và những người đã hỏi có thể hỏi thêm bị cáo.
Trước đây, việc xưng hô với bị cáo tại phiên toà không theo một quy định thống nhất, có người gọi bị cáo là anh, chị, ông, bà, cô, chú, thậm chí gọi bị cáo là cháu (nếu bị cáo là trẻ em) cũng có một số gọi là bị cáo nhưng không nhiều. Vậy gọi như thế nào cho đúng? Đây là vấn đề có liên quan đến văn hoá phiên toà trong cách xưng hô, nhưng chưa được hướng dẫn cụ thể. Tuy nhiên qua thực tiễn xét xử, theo chúng tôi gọi bị cáo là đúng hơn cả vì nay BLHS quy định pháp nhân thương mại cũng là chủ thể của tội phạm, vì vậy cần thống nhất cách xưng hô chung là bị cáo. Xưng hô như vậy vừa đúng với tư cách bị cáo vừa bảo đảm tính thống nhất trong phiên toà, lại vừa có văn hoá. Ví dụ: Chủ toạ phiên toà hỏi: “bị cáo Nguyễn Văn H khai cho Hội đồng xét xử biết ngày 1-2-2020 bị cáo làm gì ở đâu?” hoặc “bị cáo có đưa tiền cho ông Trần Quang K không?” v.v…
Tuy nhiên, nếu bị cáo là pháp nhân thương mại nếu bị truy tố ra tòa, thì việc xưng hô như thế nào cũng cần có hướng dẫn. Ví dụ: Công ty trách nhiệm hữu hạn X bị truy tố về tội buôn lậu. Vậy ai là người đại diện cho Công ty X ra tòa với tư cách là bị cáo? Theo điều lệ Công ty thì người đại diện pháp luật phải là Giám đốc, Tổng giám đốc nhưng Công ty lại ủy quyền cho một người không phải là đại diện pháp luật ra tòa, thì Tòa án có chấp nhận không? Và nếu pháp nhân thương mại ra tòa với tư cách là bị cáo thì việc xưng hô như thế nào? Chỉ gọi là “bị cáo” hay phải kèm theo vị ngữ “đại diện cho Công ty X hay chỉ gọi là “Công ty X”. Nếu chỉ gọi là “bị cáo” thì có thể nhầm với cá nhân, còn nếu chỉ gọi là “công ty X” thì lại dễ nhầm với vụ án kinh doanh thương mại. Có thể còn ý kiến khác nhau về cách xưng hô đối với bị cáo là pháp nhân thương mại, nhưng theo chúng tôi nên thống nhất gọi là “bị cáo đại diện cho Công ty X… ”Đây là vấn đề mới, lại chưa có thực tiễn xét xử nên Tòa án nhân dân tối cao cần hướng dẫn.
Việc xét hỏi bị cáo tại phiên toà sao cho bảo đảm dân chủ, khách quan, công minh, theo đúng tinh thần cải cách là một vấn đề đòi hỏi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải có kinh nghiệm, kỹ năng. Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều Hội đồng xét xử khi xét hỏi bị cáo đã định kiến sẵn hoặc theo hướng buộc tội hoặc theo hướng gỡ tội, thông qua việc xét hỏi những người dự phiên toà biết trước Hội đồng xét xử sẽ ra bản án như thế nào đối với bị cáo. Khoa học pháp lý coi việc xét hỏi tại phiên toà là một nghệ thuật, đòi hỏi các thành viên trong Hội đồng xét xử, nhất là chủ tọa phiên tòa phải khách quan, không thành kiến hoặc định kiến trước, không quy chụp (hoặc đặt câu hỏi theo kiểu bức cung hoặc mớm cung); không giải thích về hành vi của bị cáo có phạm tội hay không phạm tội, các tình tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo; không làm cho bị cáo hoặc những người tham gia phiên toà biết được ý định của chủ tọa phiên tòa khi chưa tuyên án.
Thực tiễn xét xử cho thấy do thói quen, nhiều Thẩm phán chủ yếu muốn sao để cho bị cáo “khuất phục” tại phiên toà, làm thay việc của Kiểm sát viên, chỉ tìm các chứng cứ buộc tội bị cáo nếu sẵn có định kiến là bị cáo có tội hoặc làm thay việc của Luật sư, chỉ tìm những chứng cứ gỡ tội nếu sẵn có định kiến là bị cáo không có tội.
Việc xét hỏi nói chung và xét hỏi bị cáo tại phiên toà nói riêng cũng là vấn đề không chỉ có liên quan đến văn hoá phiên toà (văn hoá xét xử) mà nó còn là vấn đề về lý luận và thực tiễn đang có nhiều ý kiến đề nghị cần xem xét lại thủ tục xét hỏi tại phiên toà làm sao vai trò của Hội đồng xét xử chỉ là người điều khiển phiên toà, hướng dẫn cho những người tham gia tố tụng khai báo tại phiên toà, điều khiển việc tranh luận giữa một bên là Kiểm sát viên, người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi liên quan đến vụ án với một bên là bị cáo, người bào chữa, bị đơn dân sự, người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
5.1 Đối với bị hại
Theo khoản 1 Điều 62 BLTTHS, thì bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.
So với BLTTHS 2003 thì BLTTHS 2015 đã có sửa đổi khái niệm “người bị hại” thành “bị hại”. Đây là sửa đổi, bổ sung đáng kể. Nếu trước đây cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra được gọi là “người bị hại”, còn cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra gọi là “nguyên đơn dân sự” và chỉ có người bị hại mới có quyền kháng cáo tăng hình phạt đối với bị cáo, còn nguyên đơn dân sự lại không có quyền này. Thực tiễn có nhiều trường hợp vụ án không có người bị hại mà chỉ có nguyên đơn dân sự. Ví dụ: Đối với vụ án bị cáo phạm tội tham ô tài sản, vì không có người bị hại nên nguyên đơn dân sự là cơ quan chủ quản bị thiệt hại về tài sản không được quyền kháng cáo tăng hình phạt đối với bị cáo. Nay BLTTHS 2015 quy định cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra cũng là bị hại là để khắc phục tình trạng “vô lý” này.
Tuy nhiên, về khoa học pháp lý có ý kiến cho rằng, nếu quy định bị hại như khoản 1 Điều 62 BLTTHS 2015, thì đối tượng bị xâm hại sẽ không còn là bị hại nữa như: đối tượng bị xâm hại không phải là người mà là vật như: trâu, bò, lợn, gà… chỉ là đối tượng tác động. BLTTHS 2015 quy định cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra là bị hại, nhưng thực tế khi tham gia tố tụng, cũng như tham gia phiên tòa cũng phải do con người cụ thể đại diện cơ quan, tổ chức bị thiệt hại. Chính vì vậy, có ý kiến cho rằng BLTTHS vẫn quy định người bị hại như định nghĩa như khoản 1 Điều 62 BLTTHS hoặc quy định cho nguyên đơn dân sự có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác như quy định tại Điều khoản 2 Điều 62 BLHS 2015.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 62 BLTTHS 2015, trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại trình bày lời buộc tội tại phiên tòa. Đây là quy định không mới so với BLTTHS 2003 nhưng thực tiễn xét xử việc để bị hại trình bày lời buộc tội tại phiên tòa không thống nhất và hầu như các Tòa án chỉ để họ trình bày ý kiến của mình như những người tham gia tố tụng khác. Việc để bị trình bày lời buộc tội như thế nào cũng chưa có hướng dẫn. Họ trình bày lời buộc tội trước hay sau khi Kiểm sát viên trình bày luận tội và người bào chữa trình bày lời bào chữa? Nếu họ đã trình bày lời buộc tội thì Kiểm sát viên có trình bày lời “luận tội” nữa không, cũng là vấn đề chưa được quy định cụ thể. Tuy nhiên, theo logic, thì bị hại trình bày lời buộc tội tại phiên tòa phải xảy ra trước khi người bào chữa hoặc bị cáo trình bày lời bào chữa mới phù hợp và lời buộc tội của bị hại cũng phải trước cả lời luận tội của Kiểm sát viên, vì lời “luận tội” của Kiểm sát viên có thể buộc tội, nhưng cũng có thể gỡ tội cho bị cáo. Trường hợp trong lời buộc tội, bị hại lại rút yêu cầu khởi tố bị cáo thì Hội đồng xét xử có đình chỉ việc xét xử không? Trường hợp nào phải đình chỉ và trường hợp nào vẫn tiếp tục xét xử.…
Việc xét hỏi bị hại đòi hỏi chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên và người bảo vệ quyền lợi của bị hại phải căn cứ vào khoản 2 Điều 62 BLTTHS quy định về các quyền của bị hại.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 62 BLTTHS thì bị hại hoặc người đại diện của họ có quyền:
– Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự;
– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
– Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
– Đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật;
– Được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án;
– Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
– Đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường;
– Tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa;
-Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
– Tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này;
– Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa;
– Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;
– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
– Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
» Trình tự thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
» Luật sư bào chữa vụ án hình sự
Thủ tục, giấy tờ mua bán xe cũ theo Thông tư 24/2023/TT-BCA của Bộ công…
Kế toán trong lĩnh vực văn phòng luật sư, công ty luật. Lĩnh tư vấn…
Tổng hợp văn bản liên quan đến giao thông đường bộ. Các văn bản luật…
Đăng ký đất đai lần đầu là rất quan trọng. Việc không đăng ký đất…
Một luật sư có được tham gia 2 (hai) tổ chức hành nghề luật sư…
Luật sư giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng. Khi có tranh chấp về…
» Luatsubaoho.com - Tư vấn pháp luật: 0768236248 - Chat Zalo