Thời hạn giao nộp chứng cứ của đương sự cho Tòa án trong tố tụng dân sự. Nghĩa vụ chứng minh của đương sự được hiểu là đương sự phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ. Khi khởi kiện người đưa ra yêu cầu cho Tòa án phải cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Ngược lại, đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh. Như vậy thời điểm giao nộp chứng cứ trong tố tụng dân sự là thời điểm nào?.
Mục lục bài viết
Thời hạn giao nộp chứng cứ của đương sự cho Tòa án
Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình, nguyên tắc chung là đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Tuy nhiên, trường hợp tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ.
1. Đương sự được cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án đến thời điểm nào?
Với một vụ án dân sự, để bảo đảm phần thắng về phía mình, điều quan trọng nhất đối với đương sự là phải chứng minh các tình tiết có lợi cho mình trước Tòa án. Do đó, chứng minh trở thành vấn đề trọng tâm của tố tụng dân sự. Muốn chứng minh được, thì con đường tốt nhất cho đương sự là thu thập, cung cấp các chứng cứ cho Tòa án.
Khoản 1 Điều 6 BLTTDS 2015 quy định rõ rằng việc thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án là “quyền và nghĩa vụ” của đương sự. Quyền là ở chỗ, bất cứ chứng cứ nào đương sự có được và góp phần tăng khả năng thắng kiện thì họ đều có quyền giao cho Tòa án, và Tòa án phải xem xét để có thể căn cứ vào đó giải quyết vụ án. Nghĩa vụ là ở chỗ, nếu đương sự không cung cấp đủ chứng cứ để chứng minh về quyền và lợi ích của mình, thì sẽ phải gánh chịu một hậu quả bất lợi từ bản án, quyết định của Tòa án. Sở dĩ pháp luật trao cho đương sự cái nghĩa vụ này, bởi với bản chất của quan hệ dân sự, thì đương sự là người trong cuộc và hơn ai hết, họ hiểu rõ mọi tình tiết của vụ án, có thể suy đoán rằng họ là chủ thể nắm trong tay nhiều chứng cứ nhất giúp giải quyết vụ án.
1.1. Khi vụ án được giải quyết tại Tòa án cấp sơ thẩm
Theo khoản 4 Điều 96 BLTTDS 2015 thì thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử.
Trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, đương sự mới cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp, đương sự không giao nộp được đúng thời hạn vì có lý do chính đáng thì đương sự phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ đó.
Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó Tòa án không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có quyền giao nộp, trình bày tại phiên tòa sơ thẩm hoặc các giai đoạn tố tụng tiếp theo của việc giải quyết vụ án dân sự.
1.2. Khi vụ án được giải quyết tại Tòa án cấp phúc thẩm
Việc cung cấp tài liệu, chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm được quy định tại Điều 287 BLTTDS 2015, cụ thể như sau:
“Điều 287. Cung cấp tài liệu, chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm
Đương sự được quyền bổ sung tài liệu, chứng cứ sau đây trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm:
a) Tài liệu, chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không cung cấp, giao nộp được vì có lý do chính đáng;
b) Tài liệu, chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm.
Thủ tục giao nộp tài liệu, chứng cứ được thực hiện theo quy định tại Điều 96 của Bộ luật này.”
Theo quy định tại Điều 287 nêu trên, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, đương sự được quyền bổ sung tài liệu, chứng cứ sau đây: (1) Tài liệu, chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không cung cấp, giao nộp được vì có lý do chính đáng; (2) Tài liệu, chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm.
1.3. Khi vụ án được giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm
Việc bổ sung, xác minh tài liệu, chứng cứ trong thủ tục giám đốc thẩm được quy định tại khoản 1 Điều 330 BLTTDS 2015, cụ thể như sau:
“1. Đương sự có quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ cho người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu tài liệu, chứng cứ đó chưa được Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm yêu cầu đương sự giao nộp hoặc đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không giao nộp được vì có lý do chính đáng hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án.”
Theo quy định tại khoản 1 Điều 330 BLTTDS nêu trên, trong thủ tục giám đốc thẩm, đương sự có quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ cho người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu tài liệu, chứng cứ đó chưa được Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm yêu cầu đương sự giao nộp hoặc đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không giao nộp được vì có lý do chính đáng hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án.
1.4. Khi vụ án được giải quyết theo thủ tục tái thẩm
Theo quy định tại Điều 357 BLTTDS 2015[2] thì các quy định khác về thủ tục tái thẩm được thực hiện như các quy định của BLTTDS 2015 về thủ tục giám đốc thẩm. Dó đó, việc bổ sung tài liệu, chứng cứ được thực hiện theo quy định tại Điều 330 BLTTDS 2015.
Từ các quy định nêu trên, có thể xác định trong tố tụng dân sự đương sự giao nộp, cung cấp tài liệu, chứng cứ cho tới thời điểm kết thúc thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Trong các giai đoạn tố tụng tiếp theo của việc giải quyết vụ án, Tòa án chỉ chấp nhận tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp nếu thuộc các trường hợp BLTTDS 2015 quy định như đã nêu ở trên.
2. Thế nào là lý do chính đáng?
Tuy nhiên, sẽ khó khăn cho người làm công tác giải quyết vụ án khi xác định thế nào là có “lý do chính đáng” làm cho đương sự không thể cung cấp được tài liệu, chứng cứ đúng thời hạn?
Mặc dù hiện nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào hướng dẫn thế nào là “lý do chính đáng” làm cho đương sự không thể cung cấp tài liệu, chứng cứ đúng thời hạn nhưng qua nghiên cứu, tác giả thấy rằng:
Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS và Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS đã được sửa đổi bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS, đều có hướng dẫn “lý do chính đáng” quy định tại khoản 3 Điều 179 của BLTTDS 2004. Theo đó, lý do chính đáng được hiểu là các sự kiện xảy ra một cách khách quan, không lường trước được. Với các hướng dẫn này, có thể hiểu lý do chính đáng bao gồm sự kiện bất khả kháng và trở ngại khách quan.
Tác giả cho rằng, hướng dẫn trong các Nghị quyết nêu trên chưa thực sự bao quát hết được các trường hợp có lý do chính đáng.
Theo tác giả, đương sự không thể giao nộp được tài liệu, chứng cứ đúng thời hạn vì có lý do chính đáng thì ngoài những lý do BLTTDS 2015 đã quy định, lý do chính đáng được xác định bao gồm sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan và lý do chính đáng khác.
Tuy nhiên, BLTTDS 2015 cũng không có sự giải thích về sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan. Trong khi một số văn bản quy phạm pháp luật khác có quy định về sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan, cụ thể:
+ BLDS 2015 giải thích về sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan như sau:
“Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình;”[3].
+ Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã giải thích sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan như sau:
“13.Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền hoặc nghĩa vụ của mình.
Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”.
Như vậy, trong khi BLTTDS 2015 không quy định cụ thể, rõ ràng về lý do chính đáng nói chung và lý do chính đáng mà đương sự không thể giao nộp tài liệu, chứng cứ đúng thời hạn luật định và chưa có hướng dẫn của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì khi xem xét, giải quyết các vụ việc dân sự cần cân nhắc, tham khảo các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác, tùy từng trường hợp cụ thể, để xác định lý do chính đáng cho hợp tình, hợp lý.
3. Hậu quả của việc vi phạm thời hạn giao nộp chứng cứ
Hậu quả của việc giao nộp tài liệu, chứng cứ trễ hạn không có sự đồng nhất với các quy định khác trong BLTTDS. Điều này, dẫn đến sự “tùy nghi” của thẩm phán trong việc áp dụng pháp luật. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các cấp tòa án.
Không ít vụ án cấp sơ thẩm không xem xét chứng cứ trễ hạn nhưng Phúc thẩm lại xem xét; thậm chí, sơ thẩm, phúc thẩm không xem xét nhưng chứng cứ này lại được sử dụng làm cơ sở giám đốc thẩm, tái thẩm, dẫn đến bản án bị hủy, kéo dài thời gian giải quyết, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của đương sự.
Trong tố tụng dân sự, quan hệ quyền lợi – nghĩa vụ cần được giải quyết là quan hệ giữa các đương sự. BLTTDS quy định về thời hạn cung cấp chứng cứ nhằm nâng cao trách nhiệm chứng minh của đương sự. Nhưng ở góc độ khác, nhiệm vụ của thẩm phán, của tòa án, của công tác xét xử là đưa ra một phán quyết đúng pháp luật và đúng với tình tiết, sự thật khách quan, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của đương sự. Nếu phán quyết của tòa án, dù vì bất cứ lý do nào, nếu không phù hợp, không đúng sự thật khách quan thì rõ ràng là một sự thất bại của công tác xét xử.
4. Vai trò của Luật sư trong đảm bảo Tòa án giải quyết vụ án đúng pháp luật
Trong quy trình tố tụng tại Tòa án khi giải quyết yêu cầu khởi kiện dân sự, kinh tế thì Luật sư với vai trò bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp luôn giúp cho thân chủ đảm bảo các quyền lợi tốt nhất trước Tòa án xét về mặt quy trình tố tụng. Trong phiên xét xử thì đại diện Viện kiểm sát sẽ đóng vai trò thực hiện quyền giám sát quy trình tố tụng tại Tòa của Hội đồng xét xử. Đôi khi viện kiểm sát cũng vi phạm quy trình tố tụng của luật.