Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. Trong việc giải quyết vụ án hình sự, chứng cứ có ý nghĩa vô cùng quan trọng, quyết định trực tiếp đến việc chứng minh có tội hay không có tội của một cá nhân, pháp nhân thương mại. Việc thu thập chứng cứ là một giai đoạn của quá trình chứng minh, là tiền đề để diễn ra các hoạt động tố tụng tiếp theo. Nếu không có thu thập chứng cứ thì không có việc kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong vụ án hình sự.
Quy định về thu thập chứng cứ của Luật sư
Theo quy định tại Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì việc thu thập chứng cứ không chỉ được thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng như: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án mà còn được thực hiện bởi chủ thể là luật sư trong vai trò tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa.
1. Thu thập chứng cứ của Luật sư
Trước đây, theo quy định tại BLTTHS năm 2003 thì chủ thể tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Đây là những cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm chứng minh tội phạm, các cơ quan này phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Như vậy, có thể thấy được điểm bất hợp lý trong quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 khi Luật sư tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa cho người bị buộc tội “có vị trí ngang hàng” với cơ quan buộc tội nhưng lại không được coi trọng, không được thừa nhận một cách trực tiếp là chủ thể tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ, việc thu thập chứng cứ của luật sư theo quy định trước đây chỉ được quy định một cách gián tiếp là việc “có thể đưa ra tài liệu, đồ vật và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án”. Để hạn chế rào cản này trong việc thu thập chứng cứ của Luật sư, khoản 2 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung quy định:
“Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa”.
Điều đó đồng nghĩa, lần đầu tiên tố tụng hình sự Việt Nam đã trực tiếp thừa nhận Luật sư là chủ thể có quyền thu thập chứng cứ trong quá trình thực hiện hoạt động gỡ tội cho thân chủ của mình. Đây là một quy định rất tiến bộ, thể hiện sự đổi mới trong tư duy lập pháp. Đồng thời, khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của Luật sư trong việc góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Trong tố tụng hình sự, việc thu thập chứng cứ của luật sư được chủ động thực hiện thông qua các hoạt động sau:
(i) Luật sư có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, để nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án: Lời trình bày của người bị buộc tội, bị can, bị cáo là chứng cứ quan trọng được sử dụng trong vụ án hình sự, bởi họ là những người trực tiếp nắm giữ những thông tin quan trọng. Những lời trình bày, khai nhận tự nguyện trung thực, khách quan góp phần quan trọng làm sáng tỏ sự thật của vụ án. Bên cạnh các chứng cứ là biên bản ghi lời khai được tiến hành do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện, thì Luật sư được quyền gặp người mà mình bào chữa để nghe họ trình bày, xác minh tính xác thực trong các biên bản ghi lời khai do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện. Vấn đề đặt ra ở trường hợp này là hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư.
(ii) Đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, liên quan đến việc bào chữa: Bên cạnh việc trực tiếp, độc lập tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 còn ghi nhận quyền của Luật sư trong việc tham gia vào các hoạt động thu thập chứng cứ của cơ quan tiến hành tố tụng. Sự có mặt của luật sư khi người tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ sẽ góp phần bảo đảm tính khách quan, đúng trình tự, thủ tục của người tiến hành tố tụng hoặc trấn an tinh thần của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Các hoạt động này được thể hiện ở việc:
(i) Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;
(ii) Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự;
(iii) Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;
(iv) Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
(v) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
(vi) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;
(vii) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra;
(viii) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;
2. Thu thập chứng cứ của Tòa án
Để thu thập chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
Như đã khẳng định bên trên, Tòa án cũng là chủ thể tiến hành thu thập chứng cứ, tuy nhiên khác với Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thì Tòa án với tư cách là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tòa án là người trọng tài, điều hành, xem xét, đánh giá và quyết định việc có tội hay không có tội của một chủ thể. Do đó hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án có những nét đặc thù riêng; trước đây Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 mặc dù khẳng định là chủ thể của hoạt động thu thập chứng cứ nhưng không có điều luật cụ thể hóa các hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án, dẫn đến việc mặc dù được ghi nhận là quyền nhưng các Tòa án lúng túng không biết thực hiện phạm vi quyền của mình như thế nào, dẫn đến quy định của luật chỉ dừng lại ở mức hình thức và thiếu tính khả thi trong việc áp dụng.
Để tháo gỡ khó khăn này, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã cụ thể hóa hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án tại Điều 252, Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ bằng các hoạt động: (i) Tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp; (ii) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án; (iii) Xem xét tại chỗ vật chứng không thể đưa đến phiên tòa; (iv) Xem xét tại chỗ nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án; (v) Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản ngoài các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định, cần định giá tài sản quy định tại Điều 206 và Điều 215 của Bộ luật tố tụng hình sự; trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản.