Mớm cung là gì, khi bi mớm cung cần làm gì?

Mớm cung là gì, khi bi mớm cung cần làm gì? Hình thức mớm cung rất nguy hiểm bởi lẽ nó làm cho việc điều tra vụ án trở nên không khách quan, sự thật bị xáo trộn, từ đó dẫn tới những kết luận, những bản án sai lệch gây ảnh hưởng lớn đến uy tín của các cơ quan Tư pháp và lòng tin của người dân vào chính quyền Nhà nước.

Mớm cung là gì, khi bi mớm cung cần làm gì?

1. Định nghĩa về mớm cung, mớm cung là gì?

Mớm cung là biểu hiện phổ biến đầu tiên của hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động hỏi cung bị can. Hành động mớm cung của cơ quan điều tra có thể hiểu là đặt câu hỏi hoặc dùng cách này hay cách khác có tính chất gợi ý để người được hỏi (bị can) trả lời theo ý muốn chủ quan của người hỏi ( Điều tra viên). Nội dung câu hỏi mớm cung thường chứa đựng ý chủ quan của người hỏi để trả lời theo ý đó.

Hình thức mớm cung rất đa dạng, có thể người hỏi gợi ý cho người nghe trả lời, có thể cho xem tài liệu, vật chứng chưa được xác định chính xác để họ trả lời theo gợi ý. Việc mớm cung làm cho lời khai không chính xác, không phản ánh đúng sự thật khách quan của vụ án. Do vậy, pháp luật Tố tụng Hình sự nghiêm cấm mớm cung khi hỏi cung bị can cũng như khi xét hỏi tại phiên toà.

Mớm cung có các hình thức phổ biến sau:

– Mớm cung bằng cách đặt câu hỏi trong đó chứa đựng nội dung câu trả lời, Điều tra viên nói rõ những suy luận, phán đoán của mình cho bị can nghe. Những câu hỏi loại này thường chứa đựng cả nội dung câu trả lời, cho nên bị can có thể ngay lập tức phán đoán được ý muốn của Điều tra viên, bị can có thể cứ thế mà khai và cán bộ hỏi cung cũng dễ bằng lòng, mặc dù lời khai có thể đúng hoặc không đúng sự thật.

– Mớm cung bằng cách đặt liên tiếp câu hỏi về một vấn đề và biểu lộ thái độ hướng bị can khai theo ý muốn của mình.

– Mớm cung bằng cách cho bị can xem tài liệu hoặc vật chứng như ảnh chụp tại hiện trường vụ án, đọc biên bản hỏi cung hoặc bản tự khai hoặc nghe băng ghi âm hoặc xem băng ghi hình quá trình hỏi cung bị can khác… trong khi chưa có đầy đủ căn cứ xác thực khẳng định có liên quan đến bị can đang được tiến hành hỏi cung nhằm mực đích mớm cung. Hình thức mớm cung này rất nguy hiểm vì nó làm cho lời khai của bị can được mớm có thể đang mâu thuẫn lại trở lên phù hợp với lời khai của các bị can khác hoặc của người làm chứng, người bị hại, với vật chứng và dấu vết tại hiện trường, dẫn tới mâu thuẫn không được bộc lộ, đúng sai khó phát hiện, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình điều tra vụ án sau này, có thể dẫn tới việc vụ án bị kéo dài mà không thể giải quyết hay sự thật không được làm sáng tỏ.

– Mớm cung thông qua đối chất. Đối chất là hoạt động điều tra được áp dụng trong trường hợp phát sinh mâu thuẫn trong lời khai giữa hai hay nhiều người về cùng một vấn đề trong vụ án nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án.

2. Chủ thể thực hiện hành vi mớm cung

Chủ thể của hành vi mớm cung là người: có trách nhiệm lấy lời khai trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Họ có thể là Điều tra viên, Kiểm sát viên hoặc Thẩm phán.

3. Đối tượng của hành vi bức cung

Đối tượng của hành vi này có thể. là bị can, bị cáo, người bị hại hoặc người làm chứng.

Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự

Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử

Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.

Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng.

4. Quy định của pháp luật về hành vi mớm cung

Pháp luật Việt Nam nghiêm cấm việc dùng nhục hình, nếu xảy ra việc mớm cung, dụ cung, ép cung, những hành vi này, tuỳ theo mức độ vi phạm, nhẹ là kỷ luật, nặng thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có các điều (Điều 298: Tội dùng nhục hình; Điều 299: Tội bức cung) để xử lý những người tiến hành tố tụng vượt quá giới hạn pháp luật cho phép trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Mặc dù không quy định rõ ràng Tội mớm cung, nhưng mớm cung là một hành vi bị cấm theo tinh thần của pháp luật hiện hành. Việc hỏi theo kiểu “ép cung” hiện nay khó có thể xảy ra tại phiên tòa nhưng “mớm cung” thì rất dễ xảy ra và tinh thần pháp luật là cấm chuyện này. Thậm chí luật còn cấm việc công bố các bản cung về lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra nếu không có sự mâu thuẫn với lời khai tại tòa để tránh tạo áp lực cho bị cáo.

5. Khi bị mớm cung, bị can, bị cáo nên làm gì?

Vậy, khi bị mớm cung, bị can, bị cáo nên làm gì? Điều 15, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định về xác định sự thật vụ án, theo đó: Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội. 

1. Nên yêu cầu có luật sư trong các buổi làm việc với điều tra viên.

Việc Luật sư có mặt để tham gia lấy lời khai của người bị tạm giữ, hỏi cung bị can có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết vụ án hình sự bởi nó không những làm cho người bị tạm giữ, bị can yên tâm về mặt tinh thần và luôn có niềm tin rằng mình sẽ không bao giờ bị oan hoặc phải chịu mức án nặng hơn so với mức độ và hành vi phạm tội của mình mà sự có mặt của Luật sư trong những hoạt động này còn khiến Điều tra viên cẩn trọng, khách quan, chính xác hơn trong khi thực hiện công việc.

Để bảo vệ cho mình thì bị can, bị cáo có quyền bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa theo Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: 

Do đó những bản cung có sự tham gia của người bào chữa, như luật sư, kiểm sát viên cho bị can trong giai đoạn điều tra sẽ khắc phục được tình trạng này và đảm bảo sự vô tư khách quan trong quá trình điều tra. Vì vậy cần mời luật sư bào chữa cho mình. Do luật sư có quyền tham gia hỏi cung bị can trong quá trình điều tra vụ án của cơ quan điều tra nên việc có mặt luật sư trong các buổi lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can không những giúp cho họ tự tin hơn trong khai báo mà còn ngăn ngừa sự vi phạm từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, tránh tình trạng khi ra toà có sự phản cung, khiếu nại về việc dùng nhục hình, bức cung, mớm cung

Sự tham gia của luật sư với vai trò là người bào chữa cho bị can, bị cáo , bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người tố giác (tố cáo), người bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự trong vụ án hình sự là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để giảm thiểu và ngăn chặn tình trạng trên. 

2. Dù sao hãy hỏi điều tra viên về khả năng buổi làm việc được ghi âm, ghi hình. 

Theo Khoản 6 Điều 183 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: 

“Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. 

Việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.”

3. Đề nghị điều tra viên giải thích mình bị truy tố tội gì và những dấu hiệu bắt buộc chứng minh của tội đó. 

4. Suy nghĩ một mô hình gỡ tội. Khai theo hướng gỡ tội. Ngay cả khi khai không nhớ thì lời khai vẫn được chấp nhận.

5. Khi kết thúc điều tra, yêu cầu cung cấp phô tô lời khai của mình và của người khác về mình. Đọc và tiếp tục căn chỉnh, củng cố mô hình gỡ tội để trình bày cho kiểm sát viên, tòa.

6. Khi kiểm sát viên phúc cung, hãy khai lại theo hướng mình xác định. Tuyên bố không công nhận những lời khai nào mà mình cho là bị mớm.

8. Nhớ lại điều tra viên đã hỏi cung, nội dung bản cung, ngày lấy nếu có thể, cách điều tra viên mớm… để sẵn sàng trình bày chi tiết ở tòa. Tận dụng thời gian tại tòa để chỉ ra lời khai nào là mớm. 

9. Khi ra tòa, yêu cầu triệu tập điều tra viên để sẵn sàng đối chất.

Căn cứ ở Khoản 2 Điều 60 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định về quyền của bị can:

2. Bị can có quyền: 

a) Được biết lý do mình bị khởi tố;

b) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;

c) Nhận quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;

d) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

g) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;

h) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;

i) Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu;

k) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.”

Và Khoản 2 Điều 61 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định về quyền của bị cáo:

Bị cáo có quyền:

a) Nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;

b) Tham gia phiên tòa;

c) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;

d) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người tham gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa;

đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

g) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;

h) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

i) Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa;

k) Nói lời sau cùng trước khi nghị án;

l) Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa;

m) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;

n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

o) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.”

» Quy định về giờ hỏi cung bị can

» Thuê luật sư bào chữa từ giai đoạn điều tra vụ án hình sự